paper

Trở Về Trang Gốc Lịch Sử Việt Nam    Về Trang Gốc Vietlist

-------------------------------

NHỮNG NHỨC NHỐI CỦA TRƯỜNG SA & HOÀNG SA

Ls. Hoàng Duy Hùng

Ngày 2/12/2007, Trung Cộng tuyên bố thiết lập cơ quan hành chánh tỉnh Tam Sa. Tam Sa gồm có Trung Sa (Tungsha), Tây Sa (Hisha) và Nam Sa (Nansha). Trung Sa gồm các quần đảo Penghu gần Đài Loan. Tây Sa tức là quần đảo Hoàng Sa, tiếng Anh gọi là Paracel Archipelago và Nam Sa tức là quần đảo Trường Sa, tiếng Anh gọi là Spratly Archipelago.

Báo chí của CSVN loan tin này một cách ngắn ngủi, không có những bài bình luận phản bác lại sự xâm lăng của Trung Công. Nhưng thời đại này là thời đại của điện tử, tin tức của những nhà yêu nước được chuyển trên paltalk và các diễn đàn điện tử; do đó, nhiều sinh viên quyết định có những cuộc biểu tình tự phát trước hai tòa tổng lãnh sự của Trung Cộng tại Sài Gòn và Hà Nội.

Thay vì yểm trợ cho sinh viên phát huy lòng yêu nước của mình chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng, CSVN lại tìm cách ngăn chận hoặc vô hiệu hóa các cuộc biểu tình với những lý do rất mơ hồ đó là cuộc biểu tình gây sự sứt mẻ tình hữu nghị Hoa Việt hoặc các cuộc biểu tình gây tắc nghẽn giao thông. Các sinh viên trao đổi với nhau trên net nói rằng tình hữu nghị của Hoa Việt như răng với môi, nhưng Trung Cộng là răng và Việt Nam là môi, môi chỉ lo bao che cho răng nhưng răng đợi có cơ hội là cắn lấy môi.

Trưa ngày 24/6/08, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đến gặp Tổng Thống George W. Bush ở Tòa Bạch Ốc tại Washington D.C. Trong lần gặp gỡ này, không như lần tiếp xúc Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết vào năm 2007, Tổng Thống Bush không hề nhắc nhở đến những vi phạm nhân quyền của Việt Nam. Khi gặp ông Triết, Tổng Thống Bush nhắc nhở ông Triết là nhiều trăm người Việt đang ở ngoài biểu tình chống CSVN, yêu cầu có tự do và dân chủ cho đất nước. Kỳ này gặp ông Dũng, Tổng Thống Bush lại cam kết sẽ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cũng như tôn trọng thể chế nhà nước của Việt Nam.

Một giờ trước khi ông Dũng đến Tòa Bạch Ốc để gặp gỡ Tổng Thống Bush, Nữ Tổng Thống Gloria Macapagal Arroyo của Philippines cũng đến nơi này. Không biết đây có phải là một sự trùng hợp hay không hay đây là một sự tính toán kỹ lưỡng của Hoa Kỳ để giải quyết vấn đề Biển Đông vì Philippines đã từng tuyên bố chủ quyền trên một số đảo ở tại Trường Sa. Hai tuần sau chuyến gặp gỡ này, Philippines tuyên bố Joint Marine Seismic Undertaking (JMSU) với Trung Quốc hết hạn và Philippines không gia hạn Hiệp Ước này nữa.

Xin nhắc lại vào năm 2004, Phillipines cùng với Trung Cộng ký JMSU về chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Việt Nam phản đối quyết liệt nên năm 2005 Trung Cộng và Philippines đồng ý để Việt Nam vào JMSU. JMSU hết hạn vào cuối tháng 6 năm 2008. Vào tháng 5 năm 2008, Việt Nam ký với Trung Cộng gia hạn JMSU tới cuối tháng 12 năm 2008. Sau khi gặp gỡ Tổng Thống Bush, bà Arroya tuyên bố không gia hạn JMSU với Trung Cộng nữa cho thấy rõ có một mật ước nào đó với Hoa Kỳ trong vấn đề này.

Phần Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng đến Houston ký giao ước khai thác dầu hỏa ở quần đảo Trường Sa giữa PetroVietnam với đại công ty Exxon Mobil. Trước đây British Petroleum (BP) của Anh đã ký giao ước với PetroVietnam để khai thác dầu hỏa trong vùng này, nhưng vì bị Trung Cộng làm áp lực dữ dội nên BP phải rút lui. Đã có những dữ kiện này mà Exxon Mobil vẫn ký giao ước với PetroVietnam cho thấy Exxon Mobil đã có sự bảo chứng vững chắc của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.

bando2

Thời đại này là thời đại “chiến tranh nhiên liệu” nên tất cả những nơi nào có dữ trữ nhiên liệu lớn đều là những chỗ mà Hoa Kỳ và các đại công ty phải quan tâm. Tháng 6 cũng là tháng giá dầu hỏa ở thị trường chứng khoán đã lên tới xấp xỉ $150 một thùng. Cuối tháng 10/08 thì giá dầu sụt xuống còn 71 USD một thùng nhưng các chuyên gia ước tính trong vòng 1 thập niên, giá dầu có lúc sẽ ở điểm cao $200 USD một thùng. Các chuyên viên ước tính Trường Sa có khoảng 3 tỷ cubic feet, tức là 535 tỷ thùng dầu, một con số khổng lồ vượt qua khỏi hầm mỏ dự trữ của Saudi Arabia chỉ còn lại khoảng 264 tỷ thùng dầu!

Trung Cộng phản ứng dữ dội, họ áp lực công ty Exxon Mobil phải rút lại hợp đồng với Việt Nam. Ngày 1/8/2008, Văn Hối Báo phát hành ở Hồng Kông, một tờ báo được coi như là tiếng nói bán chính thức của Bắc Kinh, viết một bài bình luận về vấn đề Trường Sa, dùng danh từ rất nặng “Việt Nam đang chơi trò tiểu xảo” và đề nghị chắc phải cho “Việt Nam một bài học như thời Đặng Tiểu Bình”.

Cuối tháng 8/08, trên mạng www.peacehall.com và www.Boxun.com đăng bài phát biểu của ông Trì Hạo Điền, Tổng Trưởng Quốc Phòng của Trung Cộng, xác định rất rõ cuộc thăm dò dư luận của trang nhà Sina là quan điểm bán chính thức của Trung Nam Hải, và Trung Quốc chắc phải chuẩn bị “để dạy một bài học” cho Việt Nam. Những bài viết này làm cho nhiều người Việt trong và ngoài nước phẫn nộ. Nhiều quân nhân của CSVN trả lời các đài phát thanh cho biết họ sẵn sàng ngã về phía Hoa Kỳ để chiến đấu chống lại sự bành trướng của Trung Cộng.

Cuối tháng 10/2008, ông Nguyễn Tấn Dũng đi Bắc Kinh để xoa dịu căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề Việt Nam đã ký hợp đồng khai thác dầu hỏa với Exxon Mobil và các quan sát gia tin rằng ông Nguyễn Tấn Dũng phải nhượng bộ Trung Quốc một phần nào đó trong vấn đề nay.

Trước đây những đế quốc xâm lăng như Trung Hoa và Pháp tìm cách ngăn chận cao trào yêu nước bảo toàn lãnh thổ của dân Việt, nhưng giờ đây đau đớn thay chính những kẻ mang giòng máu Việt đang ở trong ĐCSVN lại rắp tâm theo ngoại xâm tìm bằng mọi cách vô hiệu hóa làn sóng yêu nước bảo vệ chủ quyền đất nước của sinh viên và quân đôi. Lý do đơn gian: ĐCSVN là thủ phạm bán nước từ năm 1958 để nhờ đó Trung Cộng viện trợ quân trang quân dụng tấn chiếm Nam Việt Nam, và sau này, ĐCSVN tiếp tục bán nước để được Trung Cộng giúp giữ vững ngôi vị cai trị độc tôn trên toàn lãnh thổ nước Việt.

I. Địa Dư Hai Quần Đảo Trường Sa và Hoàng Sa: Quần Đảo Hoàng Sa (Paracel) cách xa bờ biển Trung Phần Việt Nam về phía đông khoảng chừng 400 cây số, và cách xa đảo Hải Nam về phía nam khoảng chừng 350 cây số. Hoàng Sa có trên dưới 130 đảo lớn nhỏ. Hoàng Sa có 2 nhóm quần đảo chính: The Crescent Group ở phía tây và the Amphitrite Group ở phía động Diện tích của Hoàng Sa là 7.6 kilômét vuông, và hòn đảo lớn nhất là the Woody Island có chu vi khoảng 2 cây số vuông. Trung Cộng đã xây phi đạo tác chiến dài 2700 mét trên hòn đảo nay. Hải âu và ba ba là những sinh vật đông đúc ở nơi nay. Hoàng Sa có nhiều mỏ dầu lớn nhỏ. Trung Cộng, Đài Loan, và Việt Nam đang tranh chấp chủ quyền ở quần đảo này. Trước năm 1975, Việt Nam kiểm soát khoảng hơn 100 hòn đảo ở Hoàng Sa, nay con số đó tụt xuống chỉ còn khoảng 20.

Quần Đảo Trường Sa (Spratly Archipelago) nằm khoảng chính giữa hải phận Việt Nam và Phi Luật Tận Quần Đảo Trường Sa đa phần là san hô (reefs) và có 12 đảo lớn và chi'nh. Hòn đảo lớn nhất của Trường Sa chỉ có 90 acres. Cũng như Hoàng Sa, nơi đây có số lượng rùa và hải âu sinh sống và nơi đây cũng có số lượng lớn dầu hỏa ở trong lòng đất. Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai và Nam Dương đang tranh chấp chủ quyền của quần đảo này.

II. Diễn Tiến Bán Nước Của ĐCSVN: Năm 1956, ĐCSVN bí mật hứa dâng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng để nhờ Trung Cộng viện trợ quân nhu, vũ khí và ngay cả một số sư đoàn đánh chiếm miền Nam Việt Nam. Báo Far Eastern Economic Review ngày 2/10/1979, dưới tiêu đề Paracels Islands Dispute, tác giả Frank Ching cho biết tháng 6 năm 1956, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Nhà Nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (tức Bắc Việt) Ung Văn Khiêm đến gặp ông Li Zhimin, đặc sứ của Trung Quốc tại Hà Nội, bàn thảo xin Trung Quốc ủng hộ ĐCSVN vũ khí và nhân sự để ĐCSVN thi hành nghĩa vụ quốc tế vô sản cưỡng chiếm Nam Việt Nam. Trong lần gặp gỡ này, để lấy lòng Trung Quốc, Ung Văn Khiêm nói: “Theo các dữ kiện lịch sử Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc” Đây là bước đầu của sự bán nước của ĐCSVN.

Nhưng bên phía Trung Quốc không dễ dàng gì mắc mưu ĐCSVN, họ yêu cầu phải có những nhân vật cao cấp hơn xác nhận chuyện này thì họ mới chịu chấp thuận giúp quân trang, quân nhu, và nhân sự cho CSVN. Vài ngày sau, Phạm Văn Đồng, với tư cách là Thủ Tướng, xác nhận những lời của Ung Văn Khiêm: “Căn cứ trên sử quan, những hòn đảo này nằm trong lãnh thổ của Trung Cộng.” (Bejing Review, March 30, 1979 trang 20).

Sau đó khoảng 2 năm trời, Trung Cộng và ĐCSVN đã có những cuộc họp bí mật của các giới chức cao cấp, và sau khi hai bên đã thỏa thuận xong, ngày 4-9-1958, Thủ Tướng Chu Ân Lai công bố lãnh thổ Trung Quốc nới rộng thêm 12 hải lý gồm có các quần đảo Trung Sa của Đài Loan, Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đài Loan phản đối việc làm ngang ngược này của Trung Công. Ngày 14-9-1958, Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị ĐCSVN quyết định cử Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đánh điện quốc thư gởi cho Chu Ân Lai chúc mừng Trung Cộng và tán đồng quyết định chủ quyền của Trung Cộng trên Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nguyên văn lá thư bán nước đó như sau:

Năm 1979, khi Chiến Tranh Việt – Trung bùng nổ, người ta hỏi Phạm Văn Đồng tại sao lại ký văn bản bán nước như vậy, ông trả lời: “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh nên tôi phải nói như vậy.” (Far Eastern Economic Review 16/3/1979 trang 11). Quả thật là một nói vô ý thức và vô trách nhiệm của một tên đồ tể cao cấp trong ĐCSVN!

Đầu thập niên 1970s, dầu hỏa được khám phá ở Biển Động Công ty Mobil dò la và biết được Bạch Hổ có một lượng dữ trữ dầu hỏa rất lớn. Họ còn phỏng đoán có dầu hỏa ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Lòng tham của Trung Cộng nổi lên. Ngày 17 tới ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Cộng đưa Hải Quân xuống đánh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa và chiếm đóng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trung Tá Ngụy Văn Thà của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và các thủy thủ trong chiến hạm của ông đã bất chấp thế ít người cô lập tức chống trả cách anh dũng lại sự xâm lăng này của Trung Cộng.

Trung Tá Ngụy Văn Thà cùng các hải quân Nguyễn Thành Trí, Lê Anh Dũng, Nguyễn Tấn Sĩ, Lê Văn Tày, Đinh Hoàng Mai, v.v. đã hy sinh trong chiến trận Hoàng Sa nêu gương sáng cho các thế hệ sau quyết tâm bảo toàn lãnh thổ của cha ông Trong khi Nam Việt Nam phản ứng dữ dội chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng, Bắc Việt lặng thịnh Trung Cộng chiếm lấy Woody Islands, hòn đảo lớn nhất của Hoàng Sa, và hiện nay đã xây xong một phi đạo 2700 mét đủ sức để cho các chiến đấu cơ lên xuống một cách dễ dàng.


Bốn chiến hạm của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ lãnh thổ vào năm 1974. Chiến hạm HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, chiến hạm HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, chiến hạm HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10 tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương.

Sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam năm 1975, Trung Cộng liền lấn chiếm một số đảo Trường Sa. Đài Loan cũng bắt chước Trung Cộng công bố Hoàng Sa và Trường Sa là của họ. Các nước khác lập tức vây máu ăn phần, nhào vào trân tráo đòi chủ quyền của hai quần đảo mà họ không có chứng cớ nào. Năm 1983, Mã Lai chiếm lấy một vài đảo ở Trường Sa. Phi Luật Tân và Nam Dương cũng nhào vào chiếm một vài đảo ở Trường Sa.

Tháng 3 năm 1988, Trung Cộng đưa hải quân vào Trường Sa để đóng cột mốc, hải quân Việt Nam ngăn chận chuyện này, lập tức bị Trung Cộng bắn trả dữ dôi. Việt Nam bị thiệt hại nặng nề, 72 hải quân bị bắn chết, 9 người bị bắt và 3 chiến thuyền bi đánh chi`m. ĐCSVN chỉ lên tiếng phản đối lấy lệ.

Ngày 8-5-1992, Trung Cộng một lần nữa công bố bức điện thư của Phạm Văn Đồng gởi cho Chu Ân Lai, sau đó ngang nhiên đưa thêm quân xuống chiếm đóng thêm một số đảo nữa và ĐCSVN như thường lệ không dám phản đối.

Ngày 19-1-1994, Trung Cộng dùng vũ lực chiếm cứ xây dựng tra.m biên phòng ở Hoàng Sa, thì ngày 20-1-1994, không những không phản đối, ĐCSVN còn đón tiếp nồng nhiệt phái đoàn bóng bàn của Bắc Kinh đến Hà Nội.

Cuối năm 2004, Bắc Kinh đưa đội chuyên viên và dàn khoan dầu hỏa Kantan vào Vùng Vịnh Bắc Bộ, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Sau đó, ngày 9/1/2005, các ngư phủ của Việt Nam, vì không hề hay biết chuyện này nên vẫn đi đánh cá bình thường tới vùng biển này lập tức bị hải quân Trung Cộng bắn chết 9 người, 8 người bị thương và bị bắt đem về Trung Cộng. Như thường lệ, ĐCSVN lặng thinh trước tội ác này của Trung Cộng.

Ngày 2/12/2007, Trung Cộng tuyên bố thiết lập hành chính tỉnh Tam Sa, thay vì hỗ trợ cho sinh viên biểu tình bày tỏ lòng yêu nước, ĐCSVN còn tìm cách đàn áp và vô hiệu hóa các cuộc biểu tình này.

Tháng 6/2008, CSVN ký hiệp ước khai thác dầu hỏa với Exxon Mobil làm cho Trung Cộng giận dữ phản đối hăm he đánh Việt Nam, lập tức cuối tháng 10/2008 Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng phải đi Bắc Kinh để thương lượng vấn đề nay. Chắc chắn đã có những thỏa hiệp ngầm và ĐCSVN dấu tối đa những bí mật đó vì sợ công bó lên sẽ gây một luồng bất mãn và căm phẫn trong quần chúng, nhất là giới sinh viên và quân đội.

III. Chủ Quyền của Việt Nam Trên Hai Quần Đảo Trường Sa và Hoàng Sa Là Điều Hiển Nhiên: Ngày 11/12/2007, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao của Trung Quốc là ông Tần Cương khẳng định: “Trung Cộng có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các quần đảo và vùng biển lân cận ở khu vực biển Nam Trung Hoa.” Trung Quốc nêu ra 4 điểm để bảo vệ lập trường của họ:

  1. Những đồ gốm, nhất là các chén sành và sứ, hiện diện trên hai quần đảo này có niên đại từ thời kỳ nhà Hán và do người Hán làm;
  2. Hiệp Ước Pháp – Hoa (Sino-French 1887 Treaty) năm 1887 thỏa thuận Trung Quốc có chủ quyền từ phía đông 43 phút độ dọc 105, vẽ đường thẳng chớ không phải vẽ theo họa đồ đất liền;
  3. Năm 1909, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên chiếm đóng hai quần đảo này;
  4. Năm 1958, Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam bán hai quần đảo này cho họ để lấy quân trang tấn chiếm Nam Việt Nam.

i. Lý luận chứng cớ đồ sành đồ gốm của nhà Hán trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nên hai quần đảo này là của Trung Quốc thì quả thật hồ đồ và ấu trỉ. Ai biết được sự khám phá nơi này có đồ sành đồ gốm từ thời nhà Hán là thật hay giả, hay là do chính Trung Cộng đưa vào đây rồi đánh trống la làng lển Hơn nữa, các thương thuyền mang các đồ sành đồ gốm này bị bão đánh chìm dạt vào Hoàng Sa và Trường Sa thì đây cũng là bằng chứng người Hán sống tại đẩy Ở bên Trung Quốc có nhiều phẩm vật Việt Nam, nhất là Tử Cấm Thành xây ở Bắc Kinh là do người Việt vậy thì Bắc Kinh là của Việt Nam hay sao?

ii. Hiệp Ước Pháp Hoa 1887 vạch định hải phận giữa Trung Quốc và Việt Nam ở Vùng Vịnh Bắc Bộ (Gulf of Tonkin) mà thội Nếu nó vạch định đường thẳng phía đông 43 phút đường dọc 105 kéo dài tới quỹ xích đạo thì không những Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc, cả một phần đất trung phần của Việt Nam từ Đà Nẳng tới Phan Thiết đều thuộc về Trung Quốc luôn!!

iii. Năm 1909 Trung Quốc mới chiếm đóng Trường Sa và Hoàng Sa, nhưng chiếm đóng thôi thì không đủ nói lên chủ quyền của mình, mà phải tuyên bố và thiết lập hành chánh chủ quyền quốc gia thì mới đủ yếu tố công pháp quốc tế. Việt Nam đã chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền của mình tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã hàng mấy trăm năm trước Trung Quốc.

Về chủ quyền của Đại Việt trên Quần Đảo Hoàng Sa, thời Vua Lê Thánh Tôn, Đỗ Bá tự là Đạo Phủ, người Bích Triều, đã nhận chỉ dụ của nhà vua, căn cứ vào bản đồ Hồng Đức, soạn thảo bộ Toàn Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thự Trong tác phẩm này, Đỗ Bá đã ghi chép khá rõ về Bãi Cát Vàng tức Quần Đảo Hoàng Sa. Về sau, Lê Quý Đôn (1726-1784), trong cuốn Phủ Biên Tạp Lục quyển thứ nhì ghi chép rõ chủ quyền của Đại Việt trên quần đảo Hoàng Sa.

Về phần Quần Đảo Trường Sa, trong cuốn Hoàng Việt Địa Dư Chí, tác giả Phan Huy Chú (1782-1840) có vẽ bản đồ Việt Nam bao gồm Quần Đảo Trường Sa dưới tên là “Vạn Lý Trường Sa.” Bản Đồ này thường được gọi là Đại Nam Thống Nhất Toàn Đồ.

Các vua triều Nguyễn, từ Gia Long, Minh Mạng cho đến Tự Đức đều cắt cử người ra lập bia miếu ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho tới năm 1994, tại hai quần đảo vẫn còn nhiều vết tích của những bia miếu đo'. Nhưng khi quân của Trung Cộng chiếm lấy hai đảo này, họ đập phá hầu không cho một di tích lịch sử nào tồn tại để chứng minh cho chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này.

Thời kỳ Pháp Thuộc, nhà cầm quyền Pháp đã thành lập đài khí tượng ở hai quần đảo nay. Ngày 15-6-1932, Pháp còn nhân danh là chính phủ Bảo Hộ để ký nghị định thành lập một cơ quan hành chính cho hai quần đảo nay. Toàn Quyền Pháp Pierre Pasquier, ngày 21-7-1933, ban hành nghị định sát nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Riạ. Về phía chính phủ Nam Triều, Hoàng Đế Bảo Đại cũng ra đạo dụ số 10 ngày 20-3-1933 để quy định Quần Đảo Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Thừa Thiên.

Khi Nhật Bản hùng mạnh, Nhật Bản manh tâm chiếm lấy Hoàng Sa và Trường Sa. Nhật Bản đổi tên Trường Sa thành Shinna Guto, và ngày 30-3-1939 chính thức công bố Trường Sa và Hoàng Sa thuộc về Đế Quốc Nhật. Lập tức ngày 21-4-1939, tòa Đại Sứ Pháp ở Tokyo đánh công hàm phản đối hành động cướp chủ quyền này của Nhật. Sau khi Nhật Bản thua trận cho Đồng Minh trong Đệ Nhị Thế Chiến, tại San Francisco, ngày 8-9-1951, Nhật ra tuyên cáo từ bỏ danh nghĩa có chủ quyền trên hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc, tại Hội Nghị Quốc Tế ở San Francisco năm 1951, chắc chắn Trung Quốc đã phải lên tiếng phản bác lại 51 quốc gia ký nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.

Khi Pháp rút lui khỏi Đông Dương, ngày 22-10-1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra thông cáo thay đổi danh xưng các địa giới. Theo thông cáo này, Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy. Kế tiếp, ngày 13-7-1961, cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh 174 ấn định Quần Đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam.

hbt

Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngay từ thời xa xưa những người ngoại quốc cũng đã công nhận. Năm 1635, tạp chí Journal de Batavia của Hòa Lan ghi lại câu chuyện ba chiếc tàu thuộc Công Ty Đông Ấn bị gặp bão. Hai chiếc thoát được đến Đài Loan, còn một chiếc bị chìm gần vùng đảo Hoàng Sa. Theo tạp chí này, quần đảo Hoàng Sa thuộc phạm vi điều hành của Chúa Nguyễn, vị Chúa cai quản Địa Phận Đàng Trọng Trong quyển “Vũ Trụ, Lịch Sử và Sự Miêu Tả Về Tất Cả Những Dân Tộc” của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1852) người Pháp, ông đã ghi rất rõ Quần Đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Địa Phận Đàng Trong tức của Việt Nam.

iv. ĐCSVN bán hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng ngay từ lúc đầu không có hiệu lực:

A. Năm 1958, có hai nước Việt Nam: Bắc Việt và Nam Viêt. Bắc Việt không có chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa nên Bắc Việt không thể bán những gì mà Bắc Việt không có.

B. Sự mua bán của Trung Cộng và Bắc Việt có tính cách giữa hai đảng phái Cộng Sản vì Phạm Văn Đồng kính gởi “đồng chí” Tổng Lý Chu Ân Lai hơn là kính gởi Thủ Tướng Chu Ân Lại Bằng chứng cho lập luận này là ĐCSVN không hề đưa vấn đề này ra Quốc Hội để bàn thảo và biểu quyết. Quốc Hội không phê chuẩn thì sự thỏa thuận giữa một quốc gia và một quốc gia không thành. Tương tự như vậy, sau năm 1975, dầu ĐCSVN nắm quyền cai trị cả nước, nhưng những Hiệp Ước Biên Giới Hoa – Việt và Hiệp Ước Lãnh Hải giữa Việt Nam và Trung Cộng ký kết năm 2000 cũng không thành vì ĐCSVN chưa hề đưa những hiệp ước này ra thảo luận và biểu quyết trước Quốc Hội.

C. Trung Cộng đem quân xâm chiếm Trường Sa và Hoàng Sa năm 1974 trong khi hai quần đảo này thuộc chủ quyền của Nam Việt Nam. Ngay từ lúc đầu đây là sự xâm chiếm nên tất cả những tiến trình sau đó, theo luật pháp, đều không có hiệu lực vì nó bị ô nhiễm (tainted).

D. Một hiệp ước không thành nếu hiệp ước đó được ký kết bởi áp lực (duress). Trung Cộng là một quốc gia lớn luôn làm áp lực lên trên Việt Nam. Ngay từ đầu, ĐCSTQ có “nhiệm vụ” làm “nghĩa vụ trong sáng quốc tế vô sản” với đàn em ĐCSVN thì không thể đặt điều kiện nào để giúp ĐCSVN. Tất cả những điều kiện thì đều vi phạm đến nguyên tắc “quốc tế vô sản” này của chính họ đặt ra. Trung Cộng rõ ràng làm áp lực với ĐCSVN, bề ngoài nói giúp đỡ ĐCSVN nhưng thực chất nếu ĐCSVN không chịu nhận lời thì có thể bị chính Trung Cộng xâm lăng. Bằng chứng năm 1979 Trung Cộng xua quân chiếm lấy 6 tỉnh Bắc Việt, sau khi rút quân về, họ vẫn chiếm đóng những mấu chốt quan trọng và làm áp lực CSVN phải nhượng khoảng 792 km2 lãnh thổ và khoảng 11,000 km2 lãnh hải.

lacomau

Với áp lực liên tục này mà dân tộc Việt Nam lại không được thông tin để bàn thảo và biểu quyết đúng tầm quan trọng của nó thì tất cả những ký kết ngay từ lúc đầu là vô hiệu lực (invalid). Hiến Chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 Điều 2 khoản 4 cấm một quốc gia sử dụng vũ lực xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia khác. Nghị Quyết 26/25 của Liên Hiệp Quốc năm 1970 cũng ngăn cấm các quốc gia không được đe dọa dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia: “Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe dọa hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp.”

Lời Kết: Rõ ràng ĐCSVN là thủ phạm giúp cho Trung Cộng có cớ xâm lăng Trường Sa và Hoàng Sa. Chính vì lý do đó nên ngày 3/12/2007, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao của CSVN là ông Lê Dũng chỉ phản đối Trung Cộng một cách yếu ớt và có lệ: “Trước sau như một, Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 nhằm giữ gìn hòa bình và ổn định trên Biển Đông và khu vưc.” Thế nào là “thương lượng hòa bình” và “thực tiễn quốc tế” thì chóp bu của ĐCSVN quá hiểu đó là luồn cúi và nhẫn nhịn để cho Trung Quốc dần dần kiểm soát cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, từ đó khống chế nền an ninh của toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhận thức được điều này nên sinh viên ở Việt Nam đã xuống đượng Người Việt hải ngoại khắp năm châu lập tức có những cuộc biểu tình và hội thảo để yểm trợ cho sinh viên trong nước.

Sinh viên trên mạng đã đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ của tiền nhân Lý Thường Kiệt để làm sống dậy tinh thần bảo vệ non sông:

Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tuyệt nhiên phận định tại thiên thư,
Nhữ hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư.

Nghĩa là:

Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời,
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Năm 1974, khi Trung Cộng xâm lăng Trường Sa và Hoàng Sa, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã phát động chiến dịch để mọi tầng lớp quốc dân đứng lên phản đối Trung Cộng. Sinh viên du học sinh Việt Nam ở Nhật Bản, Âu Châu, Úc, và Hoa Kỳ đồng loạt hưởng ứng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa biểu tình rầm rộ khắp nơi lên án hành vi bá quyền và xâm lăng của Trung Công. Hiện nay người Việt hải ngoại có khoảng 3 triệu người, chúng ta hãy có những chiến dịch rầm rộ vạch trần tham vọng bá quyền của Trung Cộng và đồng thời đây cũng là cơ hội chúng ta giúp cho người dân trong nước thấy rõ bộ mặt buôn dân bán nước của Hồ Chí Minh và ĐCSVN. Khi người dân nhận chân được bộ mặt thật này của Hồ Chí Minh và ĐCSVN thì đó cũng chính là ngày tàn của cơ chế Cộng Sản trên quê hương của chúng ta.

Cập nhật và hiệu đính lại cuối tháng 10/2008.

Ls. Hoàng Duy Hùng

-------------------------


Bốn chiến hạm của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ lãnh thổ vào năm 1974. Chiến hạm HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, chiến hạm HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, chiến hạm HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10 tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương.

lacomau



Trở Về Trang Gốc Lịch Sử Việt Nam    Về Trang Gốc Vietlist

paper