Search Vietlist.us
Search the Web

Quảng Cáo
Khắp Nơi

 

 

 

 

 

 

- AN TOÀN TRÊN HẾT -
Face Shield, Mặt nạ trong:
Dùng cho Bác sĩ, Nha sĩ,
Học Sinh, Giáo viên,
School District, Offices...
Xin vào website:
SeePPE.com.


 

-------o0o-------

Quảng Cáo Thương Mại San Jose

  1. An Ninh
  2. Bác Sĩ
  3. BS Nha Khoa
  4. BS Nhãn Khoa
  5. Bail Bond
  6. Ban Nhạc
  7. Bàn Ghế Giường
  8. Bán Xe Hơi
  9. Bảo Hiểm
  10. Bói Toán_Phong Thủy
  11. Cây Cá Cảnh
  12. Cần Người_Việc
  13. Cellular Phone
  14. Cà Phê
  15. Chợ, Siêu Thị
  16. Chùa_Nhà Thờ
  17. CơmTháng_Thức Ăn
  18. Computer_Electronics
  19. Chôn Cất, Bia Mộ
  20. Cổ Phiếu-Stock
  21. Dạy Kèm_Giữ Trẻ
  22. Dạy Lái Xe
  23. Dạy Nhạc: Piano...
  24. Dụng cụ Nhà Hàng
  25. Điện_Heat_Air
  26. Đưa Rước
  27. ĐịaỐc_TàiChánh_Tax
  28. Giặt Thảm
  29. Gạch, Thảm, Màn
  30. Giải Trí_Party_TV
  31. Giặt Ủi_Thợ May
  32. Giúp Dọn Nhà
  33. Hoa_Áo Cưới
  34. Khiêu vũ
  35. Làm Vườn_Cắt cỏ
  36. Linh Tinh
  37. Luật Sư_Di Trú
  38. Massage_Relax
  39. Nhà Hàng_Food
  40. Nhập cảng_Xuất cảng
  41. Nhiếp Ảnh_Video
  42. Quà Lưu Niệm_Gift
  43. Sách Báo_In Ấn
  44. Sign_Banner
  45. Sửa Xe_MuaXe
  46. Thẻ Tín Dụng
  47. Thợ Khéo_Ổ Khóa
  48. Thợ Sơn
  49. Tiệm Vàng
  50. Tiệm Bánh
  51. Tìm Thợ_Việc
  52. Tow Xe
  53. Thợ Ống Nước
  54. Thợ May_DryClean
  55. Tiệm Quần Áo
  56. Thuốc Tây
  57. Thuốc Bắc_D.Thảo
  58. Thẩm Mỹ_Tóc_Tay
  59. Võ Thuật
  60. Xây Dựng_Sửa Nhà

Đừng nghe những gì Cộng sản nói. Hãy nhìn những gì Cộng sản làm !
Đừng sợ những gì Cộng sản làm. Hãy làm những gì Cộng sản sợ !

-------------oo0oo--------------

Tài liệu Hoàng Sa và Trường Sa - Vietlist.us

LacLongAuCo

--------o0o--------

HỒ SƠ HOÀNG SA & TRƯỜNG SA và CHỦ QUYỀN DÂN TỘC (Phần III)


 

            PHẦN III

 

 

 

          PHỤ CHƯƠNG

              VÀ PHỤ LỤC

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 I. PHỤ CHƯƠNG  

 

  1. BẢN LÊN TIỀNG CỦA

 

ỦY BAN BẢO VỆ SỰ VẸN TOÀN LÃNH THỔ                    

                                                  về

Công Hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Phạm văn Đồng

 

Tin tức từ giới truyền thông hải ngoại cho biết rằng Tòa Đại sứ Trung Cộng tại Hà Nội vào ngày 15 tháng 9, 08 công bố bức công hàm của Thủ tướng Việt cộng Phạm văn Đồng gửi cho Chu ân Lai cách đây 50 năm về việc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Hoa.

 

Nhân dịp này Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ (UB) lên tiếng về  bức công hàm ấy.

 

VỀ PHÁP LÝ:

 

1. Việc chuyển giao một phần lãnh thổ hay lãnh hải của một dân tộc là do quyết định của toàn dân.  Ý định của toàn dân về vấn đề ấy phải được phát biểu công khai và tự do và Quốc hội có trọng trách thể hiện ý định này của quốc dân bằng một hình thức mà Hiến pháp qui định.  Như vậy đây là thẩm quyền của Lập Pháp.

 

Hành pháp là một bộ phận công quyền của quốc gia với nhiệm vụ thi hành quyết định của quốc dân. Hành pháp không có quyền quyết định tối hậu.

 

Nhìn vào sự việc, ta thấy Phạm văn Đồng với tư cách thủ tướng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) trong công hàm đề ngày 14 tháng 9, 58 gửi cho Thủ tướng Trung cộng Chu ân Lai công nhận lãnh hải của Trung hoa trong bản tuyên bố 10 ngày trước đó đã vượt ra ngoài quyền hạn của Hành Pháp. Phạm văn Đồng đã làm một việc mà ông ta không có quyền và không được phép làm.  Hành vi ấy như vậy không có giá trị gì về phương diện pháp lý.

 

2.  Tuyên bố của Chu ân Lai về 12 hải lý gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa là một hành vi xâm lăng vì lẽ hai quần đảo này chưa bao giờ thuộc quyền sở hữu của Trung Hoa và Chu ân Lai đã coi là đất của Trung Hoa trong bản tuyên bố đó. Đây là hành vi bất chấp luật pháp quốc tế.

 

Hành vi của Phạm văn Đồng vốn dĩ đã là một sự lạm quyền, nay lại có mục đích công nhận hành vi bất hợp pháp của Chu ân Lai, thì hành vi đó không có một giá trị gì.  Điều đáng lưu ý ở đây là CHNDTH nay lại cưỡng hành lời tuyên bố của Phạm văn Đồng. Đó là lý luận của kẻ theo chủ nghĩa bá quyền.

 

3. Nội dung của công hàm tuyệt nhiên không nói gì đến chuyển nhượng 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cho Trung Cộng.  Công hàm chỉ đề cập đến công nhận 12 hải lý từ Hoàng Sa và Trường Sa như Chu ân Lai đơn phương tuyên bố.  Sự công nhận này không thể được giải thích hay có nghĩa là một sự chuyển giao quyền sở hữu chủ một tài sản cho một chủ thể khác như trường hợp này.

 

4. Khi thừa nhận hai vùng quần đảo này là của Trung Cộng, Phạm văn Đồng được hiểu là thay mặt VNDCCH với tư cách là ‘chủ nhân ông’ hai vùng quần đảo ấy.  Thực sự thì hai quần đảo này lúc ấy thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).  Như vậy, nếu Phạm văn Đồng có ý định chuyển giao một cái mà mình không có, để đổi lấy sự viện trợ của Trung cộng để xâm lăng VNCH, thì đó là một ‘lời hứa hão’ với âm mưu lừa gạt Trung cộng.  Lời hứa ấy tự bản chất là không có giá trị vì lẽ VNDCCH không có ‘hiện vật’ để trao cho đối tác.  Dùng văn thư của Phạm văn Đồng làm cái cớ, Trung cộng vận dụng bạo lực để cưỡng hành lời hứa ấy để chiếm nốt Hoàng Sa vào năm 1974 và dần dần chiếm Trường Sa.  Vào năm 1979, Phạm văn Đồng tìm cách né tránh thi hành lời hứa, chối quanh, rồi thú nhận bằng cách biện bạch rằng vì ‘chiến tranh đã quyết định như vậy’.  Sau đó,  Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn mạnh Cầm cũng nhắc lại lời biện bạch y như vậy, dù cả hai quên rằng thời điểm này là thời kỳ yên bình nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam để xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng sắt máu với sự hỗ trợ của toàn khối xã hội chủ nghĩa.  Không có một đe dọa nào của ‘phe đế quốc.’

 

Để cho lập luận  có vẻ vững chãi về chủ quyền của mình trên hai quần đảo ấy của Việt Nam, Trung cộng còn  viện dẫn thêm vài ‘bằng chứng’ khác nữa:

 

Thứ nhất:  Vào năm 1956, Ung văn Khiêm, thứ trưởng ngoại giao nói với Li Zhiman, Đại lý sự vụ tòa đại sứ Trung cộng ở Hà Nội tại văn phòng bộ ngoại giao rằng về phương diện lịch sử Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung cộng.

 

Một lời nói như vậy nếu có tự nó không có giá trị gì về phương diện pháp lý, nhất là được nói ở chỗ riêng tư, như ở trong một văn phòng, không phải ở nơi công cộng như trong một buổi họp báo.  Thường thì sau một buổi gặp gỡ giữa các viên chức ngoại giao, người ta ra một thông cáo chung về một vấn đề mà hai bên cùng quan tâm.  Tuy nhiên, thông cáo chung thường làm ở cấp cao hơn.  Và trong trường hợp này, dù có thông cáo chung, không thể giúp gì cho việc xác nhận hay chuyển nhượng chủ quyền.

 

Thứ nhì: Trung cộng viện dẫn rằng sách giáo khoa cho học sinh ở Hà Nội trước năm 1974 có ghi rằng Hoàng Sa và Trường Sa lập thành một vòng đai an ninh bảo vệ Trung Hoa chống lại âm mưu xâm lăng của ‘đế quốc.”  Dù Việt cộng có ý muốn bảo vệ mẫu quốc Trung Hoa một cách nhiệt thành đi chăng nữa, bắt học sinh Việt Nam học tập việc bảo vệ ‘tổ quốc Trung hoa’ thì những điều ghi trong sách giáo khoa như viện dẫn, không có nghĩa là Hồ chí Minh đã chuyển giao 2 quần đào này cho Trung Cộng được.

 

Tóm lại, công hàm  nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn vô giá trị trên bình diện pháp lý.

 

 

TUYÊN CÁO:

 

Trung cộng đã dựa vào công hàm này để cưỡng hành ‘lời hứa’ của VNDCCH: chúng đã mang quân đánh chiếm phần còn lại của khu Tuyên Đức và toàn bộ khu Nguyệt Thiềm của quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974.

 

Sau đó chúng đã và nay đang tiến sâu về phía Nam: như đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa, làm ra luật, vẽ lại bản đồ để chiếm toàn vùng, xây các căn cứ quân sự ở nhiều nơi, lập huyện Tam Sa để chính thức sát nhập 2 quần đảo trên vào lãnh thổ Trung Hoa.

 

Đó là chưa kể đến âm mưu thôn tính lãnh thổ Việt Nam, biến đất nước này thành một tỉnh của Trung Hoa.

Trước tình thế đó, Ủy Ban đòi hỏi Đảng CSVN  ra lệnh cho Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), nhân danh là một nước độc lập có chủ quyền (như vẫn rêu rao) ra một tuyên cáo công khai trước quốc tế:

 

1)  Hủy bỏ công hàm bán nước của Phạm văn Đồng gửi cho Chu ân Lai ngày 14 tháng 9, 1958. CHXHCNVN cần phải bác bỏ lời “thú nhận” của Phạm văn Đồng và rồi  Nguyễn mạnh Cầm viện dẫn lý do  “vì chiến tranh” để biện minh cho âm mưu bán nước ấy.

 

2)  Đòi Trung cộng:

 

a) Huỷ bỏ đạo luật mà Quốc Vụ Viện Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ban hành năm 1992 công bố quyền kiểm soát việc lưu thông của nước này trên Biển Đông đối với các tầu khoa học và tầu quân sự ngoại quốc.

 

b) Thu hồi Bản đồ mà Trung cộng vẽ lại ranh giới Biển Đông và phổ biến tháng 6 năm 2006.  Ranh giới ấy vào sát bờ bể Việt Nam, rõ ràng có mục đích truất hữu “không gian sinh tồn”của Việt Nam, như thế “bóp nghẹt” sức sống của dân tộc Việt.  Muốn tiến ra biển khơi để vươn lên, nước Việt phải là một “tỉnh” của Trung Quốc.

 

c) Trả lại cho dân tộc Việt Nam toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và các đảo trong vùng Trường Sa mà Trung cộng đã chiếm đóng một cách bất hợp pháp.

 

d). Gỡ bỏ các căn cứ quân sự trên các đảo Phú Lâm, Tri Tôn, Duy Mộng v.v. kể cả Bộ Chỉ Huy, các hải cảng, phi trường v.v. đã xây cất trên quần đảo Hoàng Sa.

 

e) Phá hủy ít nhất (cho đến nay) 4 cứ điểm quân sự kiên cố xây trên khu đá ngầm Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và một kiến trúc kiên cố 3 tầng lầu  trong vùng Vành Khăn ( Mischief).

 

f) Đòi hỏi Trung Cộng ra lệnh cho tàu hải quân của chúng chấm dứt việc bắn giết ngư dân Việt, đánh đắm ngư thuyền Việt hành nghề trên lãnh hải của dân tộc; chấm dứt các cuộc tập trận bằng đạn thật với mục đích đe dọa ngư dân Việt, cũng như hủy bỏ lệnh cấm ngư dân Việt hành nghề tại Hoàng Sa và Trường Sa, hủy bỏ huyện Tam Sa mà Quốc Vụ Viện TC lập ra hồi cuối tháng 11, 2007.

 

3) Ra lệnh cho hải quân của CHXHCNVN phải bảo vệ ngư dân của mình hành nghề trên Biển Đông kể cả trong Vịnh Bắc Việt, thay vì chỉ đứng nhìn kẻ thù của dân tộc giết đồng bào của mình như đã xảy ra hồi tháng 7 năm 2007 bên cạnh đảo Trường Sa của quần đảo Trường Sa và trong Vịnh Bắc Việt hồi tháng 1 năm 2005.

Nếu Trung Cộng không thỏa mãn các đòi hỏi trên, Đảng CSVN phải ra lệnh cho hải quân đặt chất nổ phá hủy các cơ sở quân sự đã và đang xây trên khu đá ngầm Chữ Thập và Vành Khăn…. như Phi Luật Tân đã làm năm 1994 đối với một kiến trúc của TC xây trên một đảo gần bờ biển của họ. Đừng hèn nhát nữa!

 

Cuối cùng, nếu Trung cộng không thỏa mãn các đòi hỏi trên, thì CHXNCHVN phải có nghĩa vụ đưa vấn đề ra trước tòa án quốc tế để yêu cầu giải quyết tranh chấp này.  Chỉ có CHXHCNVN mới có danh nghĩa và có quyền nêu vấn đề ấy.  Không ai ngoài CHXHCNVN có thể làm được việc này.  Hãy chấm dứt sự lừa bịp bằng cách ra lệnh cho vài nhóm tay sai nêu vấn đề ấy để trốn trách nhiệm như vẫn thường làm. Đảng CSVN phải có trách nhiệm của họ đối với dân tộc Việt.  Không còn cách nào trốn tránh được nữa. CHXHCNVN phải nêu vấn đề này để chuộc lại cái tội của Hồ chí Minh và Đảng CSVN đã phạm với dân tộc Việt, và chính cái tội ấy đã dẩn đến tình trạng nguy hiểm hiện nay.  Có một điều đặc biệt là CHXHCNVN nay đã trở thành Hội Viên Không Thường Trực Hội Đồng Bảo An của Liên Hiệp Quốc (HĐBA).  Với cương vị này, CHXHCNVN cần phải dương cao ngọn cờ ‘luật pháp’ để duy trì hòa bình và an ninh thế giới.  Vấn đề này lại có liên hệ trực tiếp đến sự bảo vệ quyền lợi của chính mình, quyền lợi sinh tử của dân tộc mình.  Cũng lưu ý rằng quốc tế hỗ trợ cho CHXHCNVN vào ghế HĐBA với tư cách là đại diện cho nhân dân Việt Nam, nói tiếng nói cho nhân dân Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, chứ không phải đại diện cho kẻ theo chủ nghĩa bá quyền mà lặng yên trước vấn đề nghiêm trọng ấy.

 

Cách đây mấy tháng, TT Bush có tuyên bố rằng Hoa Kỳ ủng hộ sự vẹn toàn lãnh thổ, khi Nguyễn tấn Dũng đến Hoa thịnh Đốn.  Vào tuần lễ vừa qua, thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Negroponte đến Hà Nội, đã công khai kêu gọi rằng các tranh chấp về lãnh hải phải được giải quyết bằng luật biển.  Như vậy rõ ràng là có sự quan tâm không nhỏ của Hoa Kỳ về ôn cố trong vùng, gián tiếp cảnh cáo kẻ theo chủ nghĩa bá quyền, gây bất ổn cho tình hình thế giới.  Vào tháng 6 vừa qua, tại một hội nghị bàn về an ninh được tổ chức ở Singapore gồm có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ v.v., người ta cũng kêu gọi như vậy.  Cả thế giới hỗ trợ cho việc giải quyết tranh chấp trên căn bản ấy- giải quyết vấn đề bằng luật pháp, nghĩa là họ sẽ đứng về phía CHXHCNVN trong vụ này.

 

Và UB đòi hỏi CHXHCNVN phải hành động, và cũng nhấn mạnh thêm đến việc đưa ra trước Tòa án quốc tế cả các hiệp ước trên đất liền ký năm 1999 và hiệp ước phân chia Vịnh Bắc Việt Nam  năm 2,000 trong vụ tranh tụng này./.

 

Làm tại California ngày 15 tháng 9, năm 2008

GS. Nguyễn văn Canh

 

 

 

 

LẠI NÓI VỀ CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ HẬU QUẢ

 

 

Hội Luận  ngày 19/1/2014 từ 12 giờ trưa  đến 3 giờ 15 (edited)                  

Linh Mục Phạm sơn Hà, ở Đức giới thiệu

Kính chào  Quí vị và các anh chị trên Diễn Đàn.

Hiện nay  ở trong nước, từ trí thức  đến thường dân gồm cả truyền thông của Đảng đang nêu ra một cách sôi nổi là trận chiến Hoàng Sa  ngày 19 tháng 1 năm 1974 của Hải quân VNCH chống trả  lại  hải quân Trung cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Trung cộng tung ra một hạm đội hùng hậu gồm 11 tàu chiến và khoảng 30 tầu, thuyền hỗ trợ  trong cuộc xâm lăng  quần đảo.  Hải quân VNCH chỉ có 4 chiến hạm được điều động tới bảo vệ. Trong cuốn Hồ Sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyên Dân Tộc, in  lần 3 , tháng 4 năm 2010, trang 69, Giáo sư  Nguyễn văn Canh  viết Ngay trong những phút  giao chiến đầu tiên, lực lượng hải quân VNCH đã bắn chìm soái hạm 274 của TC . Toàn thể Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch dưới quyền điều động của Đô Đốc Phương quang Kính, tư lện phó Hạm Đội Nam Hải, kiêm Tư Lệnh Mặt Trận, cùng với 4 Đại tá, 6 Trung tá trong số này có 4 hạm trưởng, 2 thiếu tá, 7 sỹ quan cấp uý và một số thuyền viên trên tàu tử trận. Hộ tống hạm 271 của TC, và 2 trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng về sau bị phế thải, 4 ngư thuyền bị đánh chìm… 74 anh hùng Hải quân VNCH bị tử thương trong đó có Hạm Trưởng, chiến hạm Nhật Tảo, HQ 10, Thiếu tá Nguỵ văn Thà và Hạm phó Đại uý Nguyễn thành Trí.  42 người bị bắt làm tù binh. Chiếc HQ 10  bị trúng đạn, rút ra ngoài vòng chiến, rồi bị chìm. Hạm trưởng Nguỵ văn Thà quyết định từ chối xuống thuyền  bỏ chạy  dù bị thương và đã chết theo tàu...

 Gương hi sinh anh dũng cũa chiến sĩ Hải quân Việt nam Cộng Hoà trong sứ mệnh bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ  phải được  đề cao và ghi nhận đời đời trong lòng dân tộc. Liệu có ai không hãnh diện về các hi sinh cao quí của các anh hùng Nguỵ văn Thà, Nguyễn thành Trí và 72  chiến sĩ hải quân VNCH ấy? Chỉ có lãnh đạo Việt cộng từ đó đến nay hoặc ngấm ngầm ngăn cản làn sóng ghi ơn này của con dân nước Việt , hoặc giữ thái độ im lặng để được an toàn với quan Thày Trung Cộng. Lòng can trường và quyết chí hi sinh mạng sống của các tử sĩ VNCH nói trên quả là tấm gương sáng cho mọi người. Điều này trái ngược hẳn với thái độ và hành vi ươn hèn, và còn nối giáo cho giặc ngoại xâm của các lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt nam, và  của cái gọi là Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân của Hồ chí Minh. Ngay cả đến suốt thời gian TC xua quân xâm lăng, Cộng Sản Bắc Việt cũng  giữ thái độ im lặng. Một điều nực cười là trong suốt thời giam cuộc chiến xảy ra, một quan thày khác của Đảng Cộng Sản Việt nam là Liên Bang Sô Viết đã cho Đài phát thanh  Mạc Tư Khoa lên án cuộc xâm lăng ấy. Và tập đoàn lãnh đạo đàn em của Hồ không nắm bắt lấy cơ hội nhờ lãnh đạo Liên Bang Sô Viết giúp đỡ để bảo vệ lãnh thổ.

Hôm nay, 19 tháng 1 năm  2014  là ngày kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa mất vào tay Trung Cộng, sau  một cuộc chiến đấu anh dũng ấy của Hải quân VNCH. Để vinh danh các chiến sỹ anh hùng, đã xả thân bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ mà ông cha chúng ta đã đổ bao xương máu bảo vệ và để lại giải sang sơn gấm vóc này cho đến ngày nay.

Vì  đã có nhiều đoàn thể nói lại về trận chiến oai hùng này, nên chúng tôi đề nghị sẽ  nói  tới  một số vấn đề khác nhưng có liên hệ, góp phần cắt nghĩa tấm gương sáng của  các chiến sĩ ấy để nói lên ý nghĩa đích thực của sự hi sinh này. Đó là

Chủ đề I: Vài vấn đề liên quan đến Biển Đông trong đó có Hoàng Sa Trường Sa;  Đó là Công Hàm Phạn văn Đồng với  Tình trạng Biển Đông hiện nay.           

Chủ đề II: Dự tính của Hoa Kỳ là gì giúp ngăn chặn các âm mưu bành trướng của Trung Cộng hiện nay. Đó là Hoa Kỳ và An Ninh Á Châu.
(Cước chú: Chủ đề này không in trong Chương này)

 Hôm nay, Diễn Đàn một lẫn nữa hân hoan chào đón GS Nguyễn văn Canh trong buổi Hội Luận này.

Chúng tôi có vài lời giới thiệu về GS Nguyễn văn  Canh.

Cho đến năm 1975, GS Canh  là Giaó sư Ban Công Pháp, Đại Học Luật Khoa, Sàigon. Ông cũng là thuyết trình viên các trường Cao Đẳng Quốc Phòng, và trường Chỉ Huy và Tham Mưu Quân Lực Việt nam Cộng Hoà.                                           

Tại Hoa Kỳ, Giáo sư  nguyên là Học giả Viện Nghiên Cứu Hoover về Chiến Tranh, Cách Mạng và Hoà Bình, Đại Học Stanford, tiểu bang California và nay là Chủ  Tịch Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ .

Trước khi đi vào nội dung buổi thảo luận, xin Giáo sư  nói qua về Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ  mà Giáo sư là Chủ Tịch. Cách đây 3 năm, vào dịp tháng 1, Giáo sư phát động ngày Hoàng Sa Toàn Cầu để vinh danh các chiến sĩ Hải Quân Việt nam Cộng Hoà nhân dịp Hoàng Sa mất vào tay Trung  Cộng . Tại Đức, chúng tôi hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo sư, và nhân dịp tôi có hân hạnh được biết Giáo sư. Tôi rất khâm phục về kiến thức của Giáo sư và thấy Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ có một vai trò rất lớn và đã có đóng góp quan trọng cho dân tộc.

Trước khi đi vào đề tài, chúng tôi yêu cầu Giáo sư nói qua về Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thỏ.

GS Nguyễn văn Canh:

“Vào khoảng tháng 4 năm 1994, Cố Giáo sư Nguyễn khắc Kham ở San Jose, CA điện thoại cho tôi, nói rằng “ tôi có một bài báo viết nằng tiến Tàu, nói về một Hội nghị tại Đài Loan, trong đó có 10 học giả từ Hoa Lục sang và khoảng 100 học giả địa phương. Họ họp 2 ngày và cuối cùng họ lên tiếng tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là của Hoa Lục. Họ kêu gọi Hoa Kiều trên khắp thế giới giúp đỡ họ tìm kiếm bằng chứng để chứng minh chủ quyền của người Tàu trên vùng này.”  Giáo sư Kham nói thêm rằng “ lúc nào rảnh Giáo sư xuống gặp tôi về việc này”

Cố Giáo sư Kham là thầy tôi. Vì vậy, tôi ghé thăm Giáo sư để xem Giáo sư nói gì. Giáo sư Kham nói “ Chính quyền Cộng sản Việt nam là kẻ bán đất, nên họ lặng yên. Trí thức trong nước phải có một thái độ về việc này. Họ cũng im luôn. Bọn Tàu, Quốc Cộng Trung Hoa chúng chống nhau, nhưng chúng lại hợp tác với nhau về vấn đề này. Ở hải ngoại. Mình không thể ngồi yên.”  Giáo sư nói rằng tôi phải lên tiếng về việc này. Tôi đề nghị Giáo sư Kham lãnh đạo và tôi sẽ theo. Giáo sư Kham nói rằng người phải làm là tôi.

Theo khuyến áo của GS Kham,, tôi triệu tập khoảng 30 trí thức đến họp vào ngày 22 tháng 6 năm 1994 tại một phòng họp thuộc Viện Nghiên Cứu Hoover Về Chiến Tranh Cách Mạng và Hoà Bình tại Đại Học Stanford, nơi tôi làm việc. Nhóm này được mệnh danh là Nhóm trí Thức Hải Ngoai lên tiếng phản bác Tuyên Cáo của các học giả người Tàu vê chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, xác nhận chủ quyền của Việt nam về phương diện lích sử và pháp lý.

Ít lâu sau, thỉnh thoảng tôi được tin qua báo chí Tàu cho biết có một học giả nọ tìm thấy một mảnh bát ở trên một đảo của Trường Sa, rồi một học giả  khác thấy một mảnh lọ vỡ năm trên một đảo khác. Vì thế tôi nghĩa tới có một tổ chức thường trực để đối phó với bấn đề này. Do đó một năm sau, Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ ra đời. Uỷ Ban này gốm GS Vũ quốc Thúc, GS Nguyễn cao Hách, LS Vũ ngoc Tuyên, LS Võ văn Quan và tôi.

Một cánh tay đắc lực của Uỷ Ban là Center For Vietnam Studies, được lập từ 1987 để tiếp sức cho tôi  làm việc nghiên cứu, tồn trữ rài liệu, nay được giao thêm nhiệm vụ về Hoàng Sa- Trường Sa ( hay Biển Đông). Đến năm 2007, khi Trung cộng lập huyện Tam Sa để quản trị 2 quấn đảo này của Việt nam, Uỷ Ban Lãnh Thổ lấp thêm Uỷ Ban Hoàng Sa. 

Mục đích của Uỷ Ban Lãnh Thổ là  sưu tầm,  đánh giá, phân tích, tổng hợp, giải đoán  các tài liệu liên hệ, phổ biến và lưu trữ tại nhiều nơi, nhất là một số Trung Tâm Nghiên Cứu để cho bất cứ ai cần có thể sử dụng trong hiện tại, kể cả trong tương lai xa, như 100 năm tới. Về phổ biến, Uỷ Ban  cung cấp tài liệu cho các giới chức trong chính quyển Hoa Kỳ để họ biết ( thường viết bằng Anh Ngữ). Uỷ Ban có 8 đường giấy chuyển tin bằng các phương tiên khác nhau, kể cả điện tử vào trong nước. Uỷ Ban biết rằng nhiều nơi nhận được an toàn. Các giới trong nước cần được thông tin đầy đủ, được cung cấp các bản nghiên cứu đứng đắn, như thế việc đâu tranh hữu hiệu hơn.

-Đã phổ biến 2 cuốn

1)   Hồ Sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyền  Dân Tộc,

2) Chủ Quyền Lãnh Thổ và Bành Trướng Bắc Kinh. Có  hơn 30 bản đồ, và phần lớn là cổ, vẽ từ thế kỷ thứ 16, chứng minh chủ quyền Việt nam trên vùng biển này, với hơn 100 bức hình  chụp  cơ sở quân sự , đồ sộ được xây cất trên quần đảo  Hoàng Sa và độ 40 hình  chụp các căn cứ  quân sự kiên cố xây trên các bãi đá ngầm, mọc sừng sững trên biển, trong số 16 đảo trong vùng quần đảo Trường Sa mà TC chiếm đoạt từ 1988.

-Cũng đã phổ biến cuốn Bạch Thư về  Âm Mưu Bành Trướng  của Bắc Kinh với sự  Đồng Loã của Đảng Cộng Sản VN.

- Một bản tài liệu nghiên cứu liên hệ khác như bản Phản Đối  Chủ Nghĩa Bá Quyền Trung Cộng có sự tiếp tay của  CSVN với các Bản Đồ  về bành trướng bao coi tất cả Á Châu (ngoại trừ Nhật Bản) là lãnh thổ của chúng , và bản đồ phòng thủ trên Thái Bình Dương. Các tài liệu này đã được  gửi cho các nhà lãnh đạo tối cao Liên Hiệp Quốc. ….

-Từ 1994, khoảng 60 bản tiếng về các vấn đề liên hệ đến Chủ Quyền Việt Nam trên Biển Đông  và trên đất liền cũng đã được công bố….

 -LM Sơn Hà: Tiếp theo đây, Xin Gíao sư Canh đi vầ đề tài

-GS Canh:

 CHỦ ĐỀ I: CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ HIỆN TRẠNG BIỂN ĐÔNG

I. CÔNG HÀM CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG VỀ HOÀNG SA-TRƯỜNG SA:

Bằng chứng quan trọng và duy nhất mà Trung Cộng (TC) dựa vào đó để biện minh rằng chúng có chủ quyền là văn thư của Phạm văn Đồng chuyển nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho TC. Nó chính là nguồn gốc của mọi vấn đề tại Biển Đông hiện nay. Biện minh này của TC được công khai nhắc đi nhắc lại để công chúng và quốc tế hiểu. Một thí dụ điển hình trong tuần lễ bắt đầu ngày 14 tháng 9 năm 2008, Toà Đại Sứ Trung Cộng tổ chức một buổi lễ long trọng ngay tại Hà nội để kỷ niệm 50 năm ngày ký công hàm ấy, nhắc nhở nhà cầm quyền Hà nội và dân chúng Việt nam nhớ lại sự việc này.

NỘI DUNG CÔNG HÀM

Chúng ta biết rằng, với tư cách Thủ Tướng của Chính Phủ Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng  gửi  một công hàm cho Chu ân Lai đề ngày 14 tháng 9 năm 1958 công nhận quyết định của Trung Cộng mà  10 ngày trước đó TC tuyên bố về chủ quyền của chúng trên các quần đảo này.

Trước hết, tôi nhắc lại Công hàm của Phạm văn Đồng           

Thủ Tuớng Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Ho

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: 

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà  ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn  trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung  hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.

Ngày 14 tháng 9 năm 1958.

   
Văn thư này được Phạm văn Đồng tự nguyện viết để trả lời Bản Tuyên Bố đơn phương của Chu ân Lai.

             Bản tuyên bố của Chu ân Lai đề ngày 4 tháng 9 nói gì?  Bản Tuyên bố này gồm 4 điều khoản và điều khoản I được viết như sau:

Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải 

(1)      Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Ðiều khoản này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan…. và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

……………….

Tóm lại, nhân dịp xác nhận giới hạn lãnh hải mà mỗi quốc gia hải cận thường làm, Trung cộng qua Bản Tuyên cáo này lại đơn phương công khai tự nhận chúng có chủ quyền trên Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) của Viẽt nam. Đáp ứng lời tuyên bố đơn phương ấy, Thủ tướng  của Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Phạm Văn Đồng gởi văn thư ấy đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.

Như vậy, VC  nhìn nhận Trung Cộng có chủ quyền trên 2 quần đảo ấy.

NGUYÊN NHÂN NÀO ĐƯA TỚI SỰ CHUYỂN NHƯỢNG CHỦ QUYỀN CHO TRUNG CỘNG

Đây rõ ràng là hành vi bán nước. Tại sao Lãnh đạo VC có hành vi như vậy?

Ngay từ 1979, theo Tạp Chí Kinh tế Viễn Đông số ra ngày 16/3/1979, vì công luận ngạc nhiên  về sự công nhận cho Trung cộng chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Phạm văn Đồng đã biện minh rằng Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy.  Biện minh đó lại gây thêm thắc mắc, vì lẽ trong khu vực này vào thời kỳ ấy, không có một cuộc chiến tranh nào xảy ra.

Rồi phải tới năm 1992, trước sức ép của công luận về hành vi này, Nguyễn mạnh Cầm, với tư cách Bộ trưởng Ngọai Giao của Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà khai triển thêm lời phát biểu về ‘cuộc chiến tranh’của Đồng trong cuộc họp báo vào ngày 2 tháng 12 năm 1992, do hãng Thông Tấn VN  tường thuật  ngày 3 tháng 12, như sau:

Bản Tuyên bố trước đây của lãnh đạo chúng tôi được công bố trong hoàn cảnh sau đây: Với Hiệp Định Genève vào năm 1954, phần lãnh thổ phía Nam Vĩ Tuyến 17, gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản trị của chính quyền Miền Nam. Hơn nữa, Việt nam phải tập trung mọi lực lương  cho mục tiêu cao nhất để chống cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ngõ hầu bảo vệ độc lập quốc gia, cần có hậu thuẫn của các bạn bè khắp thế giới. Trong khi đó, các mối quan hệ Việt Trung rất thắm thiết và hai quốc gia tin cậy lẫn nhau. Trung Hoa đã thuận cung cấp cho Việtnam một yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá. Trong bối cảnh đó và bắt nguồn từ nhu cầu cấp bách kể trên, việc lãnh đạo của chúng tôi công nhận chủ quyền  trên Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Hoa  đòi hỏi  là điều cần thiết để ngăn ngừa đế quốc Mỹ dùng các hải đảo tấn công chúng tôi, vì nó phục vụ trực tiếp cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập và tự do của tổ quốc.

Sự công nhận ấy không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”

Như vậy, Nguyễn mạnh Cầm đã khai triển rõ hơn vềc cuộc  “chiến tranh” mà Phạm văn Đồng nêu ra. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Nhằm vào cái mà gọi là bảo vệ độc lập quốc gia, Hồ đã phải nhượng bộ theo đòi hỏi của Mao là cho  Phạm văn Đồng chuyển nhượng 2 quần đảo ấy cho Mao  với danh nghĩa là ngăn ngừa đế quốc Mỹ dùng hai quần đảo ấy tấn công Việt nam

Tập San Kinh Tế Viễn Đông số ra ngày 16 tháng 3 năm 1979 kể trên nhận xét về vấn đề này:  Những gì xảy ra ngày nay có liên hệ đến 2 quần đảo chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.  Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã dùng một ‘tiểu xảo’ để lừa dối Trung Quốc.  Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào thoát được khỏi bàn tay của Trung Quốc, trong khi họ lại phải theo cách ‘đổi mới’ của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.” 

“Do sự hồ hởi  muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Bắc và Nam, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, nhượng một phần đất “tương lai sẽ có” để cho Trung Quốc, dù  biết không chắc gì có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam.

 “ Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam Việt Nam, ngay cả việc bán đất?  Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh”.

Frank Ching  trong Tạp Chí này trong số  ra ngày 10, 1994 kết luận:

Rõ ràng là Hồ chí Minh qua tay của Phạm văn Đồng đã dâng hiến cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa một cái “ bánh ngọt to lớn” (món quà quá hậu hĩ) vì lúc đó Họ Hồ đang chuẩn bị xâm lăng Miền Nam. Hồ cần viện trợ to lớn và đã nhắm mắt chấp nhận mọi điều kiện Bắc Kinh đưa ra.   Thật là rất dễ cho Hồ chỉ bán trên giấy hai quần đảo ấy vì vào lúc đó thuộc Miền Nam.” 

Tóm lại, riêng về hai quần đảo này, thì một tay đại gian hùng như Hồ chí Minh, dù rất khôn ngoan, thành thạo dùng tiểu xảo trong mọi trường hợp, nay gặp phải Trung cộng là bậc Thày thâm độc lừa lại vì lẽ TC biết rằng Hồ đâu có làm chủ 2 quần đảo ấy vào lúc đó. Hơn nữa, Trung Cộng theo truyền thống bành trướng của của Hàn Tộc nên có thể “mai phục tường kỳ” dù mất 100 năm chờ cơ hội thuận tiện đánh chiếm  “vật” ấy.  Vì trí đoản, Hồ chỉ biết và  quen dùng mưu thuật nhằm đạt chiến thắng nhất thời, như chỉ tìm kiếm ít lợi lộc trước mắt, nên đã bị mắc kẹt trong vụ này. Về sau, việc biện hộ rằng vì bị chiến tranh, vì cần phải bảo vệ tổ quốc chống đế quốc Mỹ xâm lăng, nên đã “tôn trọng quyết định” ấy của Mao  là một sự chạy tội, phản ảnh trạng thái trí tuệ u mê của họ Hồ. Không có bóng ma chiến tranh nào, cũng chẳng có đế quốc Mỹ nào hiện diện, hay dình dập để thực hiện âm mưu xâm lăng vào lúc đó.  

Tuy nhiên, với “yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá” cho Hồ, Mao đã đạt được cả 2 mục tiêu:

a) Thụ đắc được 2 quần đảo này một cách hoà bình.  Mao không mất một giọt máu để được làm chủ. Ngược lại, Hồ và đồng bọn tỏ ra rất hồ hởi vì hưởng được món viện trợ lớn, mà không thấy mất mát gì.

b)  Đánh chiếm Miền Nam, Việt nam. Thay vì phải tự mang quân xuống đánh chiếm Nam Việt Nam, Mao  không làm nổi và đã dùng Hồ và đồng bọ làm lính tiền phong cho công tác này.

Thực vậy, những lời giải thích của Phạm văn Đồng và Nguyễn mạnh Cầm cho thấy điều đó. Sau khi chiếm được Miền Bắc vào năm 1954, Hồ đã lập một dự án bành trướng thế lực cộng sản trên bán đảo Đông Dương trước khi tiến xa hơn.  Hồ chia vùng này làm 4 chiến trường : A, Bắc Việt; B, Nam Việt; C, Miên Lào; và D, Thái Lan và Hồ lãnh nhiệm vụ tiền phong thực hiện cuộc chiến tranh này. Đây là một nghĩa vụ cao cả của người Cộng Sản quốc tế.

Trong kế hoạch này, B là Nam Việt nam, là mục tiêu đâu tiên. Hồ cần Mao gấp  rút “yểm trợ đồ sộ  (cần hậu thuẫn của các bạn bè khắp thế giới) và viện trợ vô giá ( tiền bạc, súng ống và các quân dụng khác…) , vì đó là “nhu cầu cấp bách.”

Mao  biết rằng  Nam Việt Nam là bàn đạp để  Mao diến xa hơn trong chủ nghĩa bá quyền. Các lực lượng dân tộc Việt, đối kháng với bá quyền Bắc Kinh còn lại nằm ở Nam Việt nam. Mao biết rằng kẻ ngoai xâm như Mao không làm nổi. Hơn 1000 Bắc thuộc đã là những bài học tủi nhục. Cách hay nhất là dùng người bản xứ làm công việc này. Mao đã quá khôn ngoan biến Hồ và các thế hệ tay em trở thành lính đánh thuê, mà các kẻ này không ý thức được vai trò của chúng.  Chính những kẻ này gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp giúp Mao tận diệt các thế lực dân tộc Việt thù địch ấy. Trong cuộc chiến này, Hồ và đồng bọn đã không nương tay chém giết tàn bạo đồng bào của họ, tiêu huỷ các giá trị nền tảng của chủ nghĩa dân tộc và các sức mạnh khác chống lại Mao để bảo vệ độc lập và tự chủ của dân tộc. Nếu xét về mọi phương diện như văn hoá, xã hội, lãnh thổ, kinh tế, chính trị…., những gì đã và đang xảy ra trên tòan cõi Việt nam  từ thập niên 1950  đến nay,  ta có thể thấy âm mưu thực hiện mục tiêu này đã lộ rõ.

Hồ và đàn em chiếm được Nam Việt nam vào tháng 4, 1975 và cho đến nay chúng vẫn còn đang nỗ lực làm tròn sứ mạng hoặc đặt ách thống trị trên lãnh thổ  như xưa kia hay biến Việt nam thành một phần lãnh thổ của Hoa Lục. Liệu nhưng kẻ nội thù nảy có đạt được mục tiêu này hay không?

GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CÔNG HÀM 

Liệu Công Hàm Phạm văn Đồng có giá trị pháp lý để giúp cho TC căn cứ vào đó nhìn nhận chủ quyền trên HS & TS một cách hợp pháp?

A. Về nội dung, ‘chuyển nhượng’ trong Công Hàm phải dựa trên tinh thần tự do, trong sáng, minh bạch, bình đẳng, ngay thẳng, …., ngay cả đến động lực của sự công nhận này cũng phải có tính cách chính đáng. Nếu không, hành vi này sẽ bị  coi là có hà tìsẽ trở thành  vô giá trị.

a) Không ai có thể chuyển nhượng cho một đệ tam nhân cái gì mà mình không có.  Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa này lúc đó thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Hòa. Vì không là chủ tài sản, VC không có quyền nhượng cho TC. Hành vi này có thể giải thích là một sự lừa đảo; Hồ có ý định đành lừa TC để được hưởng viện trợ. Ngược lại, Trung cộng biết sự lừa đảo này,  nhưng đòi VC phải công khai công nhận sự chuyển nhượng. Mặt khác, đây có thể còn là một sự lạm quyền, một hành vi bất hợp pháp, vì chủ nhân ông tài sản là Việt nam Cộng Hoà, không ban cấp cho Hồ và đồng bọn quyền ấy.

b). Hồ và đồng bọn ký công nhận này trong trạng thái tinh thần u mê, không sáng suốt. Phạm văn Đồng viện cớ “vì chiến tranh nên đã phải nói như vậy”. Rồi Bộ trưởng Ngoại giao VC Nguyễn mạnh Cầm còn thêm: “chúng tôi đang dồn nỗ lực vào chống đế quốc Mỹ xâm lược.”  Chiến tranh ám ảnh quá mạnh đến trí óc nên chúng  mất khả năng phán đoán, vì lúc là thời kỳ toàn thịnh của VC, và không có đế quốc Mỹ nào dình dập để xâm lược, và cũng chẳng có con ma chiến tranh này đe doạ Bắc Việt. Cũng vì u mê, nên chúng  mất hết khả năng nhận biết về sự hành động và hậu quả việc làm của sự công nhận ấy. Một người bình thường có thể nhìn thấy hiện nay những gì đang xảy ra ở Biển Đông. Hơn nữa, chúng u mê và mờ mắt vì TC đã chấp  thuận viện trợ quá nhiều như Nguyễn mạnh Cầm nhấn mạnh “Trung Hoa đã thuận cung cấp cho chúng tôi một yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá….”,  để đáp ứng “nhu cầu cấp bách” là “ chống đế quốc Mỹ xâm lược để bảo vệ tổ quốc”.  Cũng vì thế mà hồ hởi quá độ, say sưa và xung phong đóng vai trò của kẻ thừa sai trong âm mưu của Cộng Sản quốc tế ấy cho Mao mà không biết.

c) Lầm lẫn vì tin ở  lòng tốt của TC. Cầm ca ngợi mối liên hệ ấy là “ các mối quan hệ Việt Trung rất thắm thiết, và hai quốc gia tin cậy lẫn nhau; Bọn Hồ còn bị lầm vì  tưởng “viện trợ đồ sộ và vô giá” là cho không ( bất hoàn trái) để giúp VC, đảng cộng sản anh em xây dựng  xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, và đang chuẩn bị đánh chiếm Miền Nam, rồi từng bước tiến chiếm Đông Nam Á  là nghĩa vụ quốc tế; mặt khác, Hồ còn có lầm lẫn khác và thiếu trí tuệ với  hiểu biết nông cạn vì tưởng rằng dù công nhận cho TC có chủ quyền nhưng  “vẫn còn chủ quyền lịch sử và pháp lý.”

            d) Tính chất bất bình đẳng trong hành vi này:Yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá” của đàn anh vĩ đại mồi nhử  to lớn cho VC là kẻ nghèo đói, tham lam, đang có “nhu cầu cấp bách” để xâm chiếm Miền Nam. Trong bối cảnh này, Hồ đã bị buộc chấp thuận “đòi hỏi” của  Trung cộng  phải công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng để đổi lấy viện trợ ấy.

e) Động lực công nhận cũng  bị dị nghị. Họ Hồ và đồng bọn đã đánh đổi đất đai của dân tộc lấy viện trợ để thực hiện một âm mưu không trong sáng của Đảng Cộng Sản Việt nam: theo đuổi mục tiêu của Cộng Sản quốc tế và dùng làm phương tiên để thực hiện một cuộc chiến tranh xâm lăng. Đó  là cuốc chiến tranh huy đệ tương tàn. Và sự kiện này đã được chính Phạm văn Đồng, Nguyễn mạnh Cầm, thú nhận. Nói cho rõ hơn, như lời nhận xét của ký giả Frank Ching của Tạp Chi Kinh Tế Viễn Động  đã noi ở trên rằng đây chỉ là ‘dàn xếp mờ ám’ của hai đảng Cộng Sản anh em….

Tóm lại, hành vi công nhận của VC  được biểu lộ trong Công hàm này  bị coi là hà tì. Do vậy, hành vi công nhận  ấy không có giá trị.

chủ quyền của Việt nam trên hai quần đảo này không thể thay đổi.

B. Giá trị pháp lý của công hàm của Phạm văn Đồng về phương diện hình thức.

Công hàm chỉ là một văn thư hành chánh, trao đổi quan điểm giữa hai chính phủ (hành pháp) của hai quốc gia. Một văn thư hành chánh như vậy lại là văn thư ấy công nhận chủ quyền như trường hợp này không có giá trị trong việc chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ hay lãnh hải. Muốn chuyển nhượng một lãnh thổ, luật pháp quốc tế đòi hỏi phải thục hiện bằng một hiệp ước. Để một hiệp ước có hiệu lực, trước hết, hai bên đối tác phải ký kết một văn kiện về chuyển nhương. Khi nói tới điều này, phải nói rõ trao đổi  giữa hai bên như việc mua bán một vật gì đó. Dĩ nhiên, phải có tính cách chính đáng, công khai để cho công chúng hiểu biết và tham gia ý kiến. Kế đó, Quốc Hội mỗi bên phê chuẩn đúng cách văn kiện ấy. Và cuối cùng, nguyên thủ quốc gia phải ban hành đúng cách thì việc chuyển nhượng ấy mới có giá trị. Có một số quốc gia đòi hỏi một điều kiện khó khăn hơn là phải có trưng cầu dân ý của toàn dân về Hiệp ước mua bán lãnh thổ. Thủ tục như vậy biểu lộ ý chí  thực sự của toàn dân về vấn đề này. Nếu không được thực hiện như vậy, hành vi ấy bị coi là hà tì và trở thành vô hiệu và bị bác bỏ..

C. Hành vi của Trung cộng là bất hợp pháp. Trong bản tuyên bố, họ Chu tự nhận TC đã là chủ 2 quần đảo ấy. Đơn phương tuyên bố làm chủ hai quân đảo như vậy là hành vi bất hợp pháp. TC không bao giờ thụ đắc hợp pháp quyền làm chủ hai quần đảo này. Việt nam đã là chủ từ cả ngàn năm nay và đang còn là chủ. TC  là chủ bất hợp pháp một tài sản , thì việc ‘tán thành’/’công nhận’ của Phạm văn Đồng chẳng có giá trị gì..  

D. Tuyên bố lãnh hải là 12 hải lý theo luật biển và vùng lưỡi bò. Luật biển 1982 cho phép một hải đảo được nới rộng một phần biển là thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý ngoài lãnh hải 12 hải lý, nghĩa là nới rộng lãnh thổ ra biển khơi.  Để một hải đảo được quyền này, hải đảo ấy phải có đầy đủ điều kiện  như tự sinh tồn (kinh tế) mới được hưởng qui chế ấy. Các đảo trong hai quần đảo này không hội đủ điều kiện của Luật biển 1982. Mặt khác, về phương diện địa lý, hai quần đảo này cách quá  xa lục địa Trung Hoa , nhất là Trường Sa  cách  bờ biển Hoa Lục cả ngàn cây số không thể nào là lãnh thổ Trung Hoa. Khi Chu ân Lai tuyên bố chủ quyền  trên Hoàng Sa và Trường Sa với vùng biển 200 hải lý nới rộng như trên, Trung Cộng không thể  dựa vào đó để biện minh  bản đồ lưỡi bò được phổ biến hồi tháng 6 năm 2006, để rồi nhằm chiếm cả  Biển Đông. Hành vi ấy là hành vi của bọn bá quyền, không bao giờ có thể biện minh được.

---------------

Tóm lại, về phương diện pháp lý, Công hàm của Phạm văn Đồng  là một hành vi không có giá trị. Do đó việc Trung cộng viện dẫn công hàm đó để chứng minh chủ quyền chỉ là một cái cớ không chính đáng của kẻ mạnh, theo chủ nghĩa bá quyền.

Chính vì Công hàm của Phạm văn Đồng được dùng làm cái cớ để  TC chiếm trọn hai quần đảo này. Nay chúng đã có hàng không mẫu hạm, chúng đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên hai quần đảo để bảo vệ tài sản mà chúng  đã đánh chiếm một cách bất hợp pháp trên đó, chúng đã thiết lập cơ quan hành chánh để quản trị và như vậy là chính thức sát nhập toàn bộ Biển Đông vào lãnh thổ Trung Hoa. Vậy VC phải chịu trách nhiệm về vấn đề này và ở vị trí nhà cầm quyền  chúng phải làm gì để đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa?  

GIẢI PHÁP ĐÒI LẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA 

Đảng Cộng Sản Việt nam phải có trách nhiệm lớn lao để mất Hoàng Sa và Trường Sa về tay Trung Cộng. Đây là một tội ác nghiêm trọng đối với dân tộc Việt, vì chúng thực hiện âm mưu bán Hoàng Sa-Trường Sa cho kẻ thù của dân tộc, và không bao giờ có thể được tha thứ.

Trước nguy cơ việc Trung Cộng chiếm hữu vĩnh viễn để làm tài sản của chúng như mọi người chứng kiến, để chuộc tội này, ít nhất, Đảng Cộng Sản Việt nam với Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam phải làm một vài việc sau đây, làm nền tảng pháp lý cho các thế hệ tương lai đòi lại, nếu không phải bây giờ, nghĩa là phải làm bằng chứng về duy trì tính cách liên tục của chủ quyền. Chỉ có Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mới có danh nghĩa làm việc này.

a). Đảng phải ra lệnh cho Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam công khai tuyên bố  huỷ bỏ Văn Thư của Phạm văn Đồng và coi văn thư  ấy là vô giá trị. Cũng không cần phải gửi Bản Tuyên Bố như vậy cho Trung Cộng. Hành vi này có thể có hay không cần viện dẫn lý do và tôi nhấn mạnh rằng đơn phương tuyên bố là đủ.         

 Nếu muốn viện dẫn lý do, VC có thể nói rằng bị TC  dụ dỗ như đã được TC hứa cung cấp nhiều viện trợ để xâm lăng Miền Nam; bị mê hoặc vì ý thức hệ, nên đã mù quáng công nhận; bị TC lừa dối nay mới biết rõ sự thật về mưu mô của TC; bị TC áp lực thực hiện Xã Hội Chủ Nghĩa tại Việt nam; bị quá say mê, quá hồ hởi, mất sáng suốt, vì chiến thắng mới thu được vài năm trước đó, nên không đoán trước được những gì sẽ xảy ra hàng chục năm về sau; bị áp lực (đòi hỏi của TC) phải  nhượng Hoàng Sa- Trường Sa cho TC, để lập vòng đai  phòng vệ , bảo vệ tổ quốc; sự công nhận này rõ ràng là bất bình đẳng, vì sức mạnh của Trung cộng; không có ý định thực sự chuyển giao chủ quyền vì nghĩ rằng VC dù có công nhận quyết định của TC về chủ quyền, vẫn còn chủ quyền lịch sử và pháp lý….

            b).  Phải làm hồ sơ đưa vấn đề ra Toà Án quốc tế về vụ Trung Cộng dùng võ lực xâm lăng, đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1956, 1974, và chiếm 6 đảo đá ngầm thuộc vùng Nam quần đảo Trường Sa vào năm 1988, và 10 đảo đá khác từ năm 1992. Trung cộng hiện đã xây biết bao công sự quân sự kiên cố để bảo vệ sự chiếm đóng vĩnh viễn của chúng. Việc nộp hồ sơ này là khởi đầu của công tác đòi lại chủ quyền. Dù tiến trình có kéo dài đi chăng nữa, ít nhất đó là bước căn bản. Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ đã có đủ tài liệu, bản đồ, hình ảnh làm bằng chứng .

VC hãy ngưng hành vi tiếp tay cho Trung cộng củng cố và chiếm hữu vĩnh viễn Biển Đông của ông cha để lại. Đừng  tiếp tục hèn nhát và che dấu sự hèn nhát ấy bằng các hoạt động bề ngoài như chỉ lên tiếng xuông như VN có chủ quyền pháp lý và lịch sử, hay  loan báo mua võ khí để  cho mọi người giải thích là bảo vệ lãnh thổ.

Phi Luật Tân là bài học cần phải theo ngay.

         c). Dĩ nhiên hai việc này là giải pháp pháp lý cần phải có, và chỉ là bước đầu của công tác phải làm để bảo vệ lãnh thổ. Kế đó phải chuẩn bị lâu dài nhiều giải pháp khác về mọi phương diện như ngoai giao, kinh tế, quân sự,…. nhất là củng cố nội lực cho công cuộc bảo vệ  lãnh thổ và đồng thời giành lại  phần đất tổ mà Đảng CSVN đã để cho giặc ngoại xâm chiếm.

Các điều này đã được UBBVSVTLT đòi hỏi VC phải làm nhiều lần từ trước đến nay.

Âm mưu của Hồ dẫn đến tình trạng hiện nay ở Biển Đông. Vậy tình trạng Biển Đông như thế nào?

  Văn Thư của Phạm văn Đồng như tôi đã nói ở Phần I là cái cớ duy nhất để Trung Cộng biện minh cho hành động xâm chiếm Biển Đông bằng võ lực. VC đã ký giấy bán và nhận ‘tiền rồi’, lại tìm cách né tránh không giao “vật” hay Hoàng Sa  và Trường Sa, nay Kẻ mua là Trung cộng mang quân xuống chiếm hay dùng sức mạnh để cưỡng hành lời cam kết.  

Phần I ở trên đề cập đến khía cạnh quốc tế công pháp trong việc đòi lại chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa của Việt nam.

Văn thư ấy đưa đến tình trạng sau đây trên Biển Đông.

(Nội dung phần này là Phần Nhận Định ( có cập nhật) của Bản Tuyên Cáo của Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ v/v TC sát nhập Biển Đông vào Hoa Lục qua việc thiết lập Thành Phố Tam Sa. Tuyên Cáo được cựu Thiếu Tá Cảnh Sát Thái văn Hoà long trọng đọc trong buổi lễ Tổng Kết Hoạt Động của Uỷ Ban Hoàng Sa ngày 1 tháng 9 năm 2012 tại phòng Khánh Tiết, Nhà hàng Kobe, Santa Clara, CA.) 

II. HIỆN TRẠNG BIỂN ĐÔNG

Ngày 23 tháng 6 năm 2012, Quốc   Vụ Viện Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (TC) phê chuẩn sự thiết lập “Địa Các Tam Sa Thị”, nghĩa là lập thành phố Tam Sa và trụ sở của thành phố này nay đặt tại Đảo Phú Lâm, trên quần đảo Hoàng Sa của Việt nam.  Tam Sa nguyên là địa danh một khu vực nhỏ trên đảo Hải Nam, và được dùng làm tên một huyện mà TC lập ra tại đây vào thá ng 11 năm 2007, với nhiệm vụ là quản trị 3 quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Việt nam. Việc nâng cấp đơn vị hành chính này từ cấp huyện lên cấp thành phố là để nêu cao tầm quan trọng của nó và cũng nhắc cho quốc tế biết nay TC thực sự sát nhập vùng lưỡi bò (Biển Đông của Việt nam) vào lãnh thổ Hoa Lục. Để chính thức hoá việc quản trị vùng biển này, TC cho thiết lập một cơ quan hành chánh, dù không có dân chúng lập nghiệp tại đây, không có một sinh hoạt kinh tế (1). Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân (ĐHĐBND) tỉnh Hải Nam, tại phiên họp lần thứ 32 ngày 17 tháng 7, 12  đã quyết định thành lập Hội Đồng Nhân Dân Thành phố Tam Sa.  Đây là Cơ quan Quyết Nghị (lập pháp) gồm 45 thành viên (2), đặt tại ngôi nhà gạch hai tầng lầu (3) trên đảo Phú Lâm có nhiệm vụ ban hành luật lệ về các vấn đề trong khu vực lien hệ. Con số to lớn hội viên Hội Đồng Nhân Dân này làm nhiều người lầm tưởng các quần đảo này có một dân số rấtđông.
Đồng thời, Tân Hoa Xã cho biết phiên họp đầu tiên của 'hội đồng nhân dân thành phố Tam Sa' đã kết thúc hôm thứ Hai 23/7, và đã bầu Bố Tráng, cựu Phó Tổng tham mưu trưởng Quân khu Hải Nam, làm Chủ tịch Hội Đồng và Tiêu Kiệt được cử làm Thị trưởng, đứng đầu cơ quan chấp hành của thànhphố.
Ngoài ra, Hoàn cầu Thời báo cùng lúc cũng loan tin TC đang xây dựng một nhà tù và nói rõ có mục đích giam giữ các ngư dân nước ngoài mà Bắc Kinh cáo buộc xâm nhập trái phép vùng biển của chúng

Thêm vào đó, đặc biệt để cảnh giác các quốc gia trong vùng, TC loan báo quân sự hoá thành phố Tam sa. Phát ngôn viên bộ Quốc phòng TC Dương Vũ Quân cho biết là TC đã thiết lập Bộ Chỉ Huy Quân sự Tam Sa. Thái Hỷ Hồng, đại tá, được cử làm tư lệnh thành phố, và Lưu Triều Nghi, đại tá, làm chính ủy. Đại diện bộ Quốc phòng TC còn nói rằng các nhiệm vụ chính của cơ quan quân sự Tam Sa là huy động lực lượng quốc phòng, bảo vệ thành phố Tam Sa, hỗ trợ phòng chống thảm họa thiên tai. Còn các hoạt động quốc phòng trên biển (ngoài phạm vi hai quần đảo trên) vẫn do hải quân TC phụ trách (China Daily ngày 27 tháng 7, 12).

Mặt khác, Đài phát thanh Quốc tế TC phổ biến bản tin nói rằng ngày 28/6, trong một cuộc họp báo tại Bắc Kinh, một viên chức quốc phòng là Cảnh Nhạn Sinh nói là quân đội TC đã thiết lập chế độ tuần tra bình thường để "phòng ngừa chiến tranh trên vùng biển Trường Sa", trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ « chủ quyền quốc gia »…. ,« quyết tâm và ý chí của quân đội Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là không thể lay chuyển. Bối cảnh mà TC tạo ra có nghĩa là những đội tuần tra sẽ ở trong tư thế sẳn sàng chiến đấu. Cảnh Nhạn Sinh nói thẳng rằng TC sẽ kiên quyết chống lại « mọi hành động gây hấn quân sự từ các nước láng giềng.”

Loan báo quyết định lập bộ tư lệnh Tam Sa và đặt quân đồn trú dưới sự chỉ huy của bộ tư lệnh ấy và nhiệm vụ của nó mang ý nghĩa là quân đội TC sẵn sàng dùng võ lực để đối đầu với các đe doạ để bảo vệ chủ quyền.

                                    ooo                

Từ thập niên 1970, sau khi chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH, TC xây các doanh trại, các cơ sở, phi trường, bến tàu, lập các kho võ khí, hệ thống viễn thông… khắp nơi.

Sau đây là một số kiến trúc quân sự bằng xi măng cốt sắt trên:

A) Quần đảo Hoàng Sa: -Phú Lâm là trung tâm quan trọng nhất với 1 phi đạo dài 2700 m, chiều ngang rộng 120 m cho phi cơ phản lực của quân đội TC lên xuống. Vì Phú Lâm rất nhỏ, Trung cộng phải kè thêm xi măng và đá ở 2 đầu phi đạo ra biển để nới rộng thêm (vào thập niên 1970, chiều dài phi đạo là 1000 m, cho phi cơ cánh quạt sử dụng); hai hải cảng cho tàu chiến; hai toà nhà, mỗi cái có 2 tầng lầu, bãi trực thăng, 4 hồ chứa nước, mỗi hồ chứa được 5000 thước khối nước mưa (mỗi năm quân đội TC hứng được tất cả 140,000 tấn nước mưa) cho quân đội sử dụng; các cơ sở viễn thông, đài khí tượng, hệ thống radar. Doanh trại được xây cất cho cả ‘ngàn’ quân (thuỷ quân lục chiến) ra trú đóng. Về phía đông bắc, một cồn nhỏ có một con đường dẫn ra. Ở nơi đây là các kho đạn. Phú Lâm là một trong 4 đảo, Quân đội TC trong gần một thập niên qua đã bắt, giam giữ, đánh đập, cướp bóc và xử phạt tù và đòi tiền chuộc mạng đối với ngư dân Việt thuộc đảo Lý Sơn hành nghề ngoài khơi Hoàng Sa.

Không có một bóng dáng dân chúng lập nghiệp tại đây, cũng không có một sinh hoạt kinh tế nào.

-Quang Hoà, nơi đã xảy ra cuộc chiến chống xâm lăng của Trung cộng vào tháng 1, năm 1974,  là đảo có một bộ chỉ huy khang trang.

-Các căn cứ quân sự cũng được sây cất trên các đảo Cù Mộc, Linclon, Hữu Nhật, Quang Ảnh. Đảo Tri tôn, cách Cù Lao Ré thuộc Quảng Ngãi 123 hải lý có xây một kiến trúc viễn thông  và  trong năm 2012 TC cho xây một hải cảng ở đây.

B. Tại Trường Sa, hơn một chục kiến trúc quân sự, kiên cố, đồ sộ sừng sững mọc trên mặt nước tại các bãi đá ngầm nằm về phía Nam của quần đảo (xuống mải vĩ tuyến 8) như Khu Chữ Thập (5 kiến trúc), Khu Vành Khăn (4 kiến trúc), và trên bãi đá Gạc Ma, Su bi, Colin, Đá Nam, Đá Tây, Hòn Sáp Chiqua , Châu Viên ( Đá Hoa Lau) v.v.

Xem Hình chụp các kiến trúc trên được in trong cuốn Bản đồ Chủ Quyền và Bành Trướng Bắc Kinh, và Cuốn Hồ sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyền Lãnh Thổ.

Tóm lại, tất cả các hoạt động và hành vi trên của TC được thực hiện trong một tiến trình dài để hợp thức hoá âm mưu chiếm  đoạt Biển Đông của VN và nay như vậy là sát nhập Biển Đông vào lãnh thổ TC. Trong tình trạng này, TC đã tự coi Biển Đông là lãnh thổ của chúng và sẵn sàng bảo vệ bằng võ lực. 

                                             ooo

Đơn phương tự nhận là chủ nhân ông trên một dải đất mà kẻ xâm lược biết rằng sự chiếm đoạt là bất hợp pháp, TC tìm cách hợp thức (pháp) hoá phần lãnh thổ ấy. Cách nào đây? Ép VC ký hiệp ước như trên vùng biên giới? VC không dám (4),  dù mặc thị/âm thầm tiếp tay cho giặc để đạt mục tiêu này.

Chỉ còn cách là hành sử chủ quyền và bảo vệ chủ quyền bằng cách mua chuộc bằng tiền bạc, như vụ bauxite ở Tây Nguyên để kéo dài thời gian, hay hù doạ kể cả bằng cách phô trương sức mạnh đã chuẩn bị sẵn từ nhiều thập niên, hoặc bằng các hoạt động liên tục và kiên trì chứng tỏ hiện diện của chúng một cách thường trực, lâu dài gây sự chú ý của mọi người và lâu dần sẽ chấp nhận thực trạng này, gồm cả bằng cách khua chiên gõ mõ om sòm/ngăn chặn những ai đi qua, và tố cáo họ vi phạm lãnh thổ dù là hành nghề như đánh bắt hải sản  như trường hợp ngư dân VN v.v.. Còn nữa, với tư cách là chủ nhân ông, khi cần chúng có thể đứng ra thương thảo chia sẻ quyền lợi với bất cứ ai có đủ sức mạnh đòi hỏi và loại VC ra ngoài…. Các hoạt động loại này có thể kéo dài dù nhiều năm, hay cả hàng thế kỷ cũng được và sẽ giúp cho kẻ xâm lược trở thành chủ nhân ông thực sự, bất khả tranh cãi về sau. Tuy nhiên, các hoạt động ấy không được thực hiện, khi chúng còn thấy còn yếu. Khi tự cảm thấy đủ mạnh võ lực, chúng sẽ dùng sức mạnh ấy, để đánh bại các đối thủ và trở thành kẻ chiến thắng cuối cùng.

----------------

Các hoạt động của TC trên Biển Đông để xác nhận chủ quyền.  Có 2 lãnh vực hoạt động là hành sử và bảo vệ chủ quyền.

1. Hành Sử Chủ Quyền

Một mặt, vì đây là hành vi xâm lược lãnh thổ Việt nam một cách bất hợp pháp, và mặt khác vì là con đường hàng hải quốc tế chạy qua Biển Đông, nghĩa là nó có liên quan đến quyền lợi thiết yếu của nhiều quốc gia nhất là Hoa Kỳ, trong lúc này, TC lựa chọn các hành vi để hành sử chủ quyền ở một mức độ chừng mục chứng tỏ rằng chúng là chủ Biển Đông một cách hoà bình, cốt để tránh đối đầu trực tiếp về quân sự nhất là với Hoa Kỳ và thế giới. Cần có hiện diện thường trực trên Biển Đông là chính.

a). Hoạt động tuần tra, giám sát bằng phương tiện “dân sự.”

Theo Tân Hoa Xã ngày 04 tháng 07, đội tàu hải giám của TC tuần tra tại « vùng biển do TC quản trị tại Nam Hải », đã quan sát  “gần”, để « thu thập chứng cứ, giữ gìn quyền lợi » đối với một số đảo và bãi đá ở miền trung quần đảo Trường Sa. Sáng 3 tháng 7, đội tàu hải giám đó cũng đã đi qua một số bãi ngầm và bãi cạn phía đông quần đảo này.

Vì là nguỵ trang, các tàu hải giám (tầu quân sự được sơn màu trắng để giảm bớt tính cách gây hấn) được công khai sử dụng để tuần tra khắp Biển Đông. Hiện nay, TC có 4 chiếc và căn cứ của chúng là đảo Hải Nam. AFP dẫn nguồn tin từ Tân Hoa Xã nói rằng đó là bốn chiến hạm của hải quân được nguỵ trang là các tàu hải giám, và thuộc quyền quản trị của Quốc gia Hải dương Cục, trực thuộc Bộ Tài Nguyên Lãnh thổ Trung Quốc, chứ không thuộc lực lượng hải quân.

Trong những năm trước đây, các tàu hải giám được dùng để tuần tra, giám sát ngăn chặn ngư dân Việt bắt đánh cá. Chúng bắt bớ họ, tịch thu tàu thuyền, ngư cụ, cướp đạt hải sản đã bắt được, cướp đoạt tiền bạc, giam cầm và đưa các nạn nhân về các đảo Phú lâm, Lincoln, Hữu Nhật giam giữ, truy tố vì xâm phạm “lãnh hải”, có cả đòi tiền chuộc mạng. Chúng là tác giả nhiều vụ đánh chìm ngư thuyền Việt hành nghề trên Biển Đông, rồi bỏ chạy. Và VC không dám tố cáo, chỉ nói là tàu lạ.

Chúng không ngần ngại bắn giết ngư dân Việt.

Ngoài ra các tàu này còn hộ tống và bảo vệ ngư thuyền TC hành nghề, như ngày 15 tháng 7, 2012 vừa qua các tàu hải giám đó hộ tống một đoàn 30 tàu cá TC đến Khu Chữ Thập, phiá Nam quần đảo Truờng Sa.

TC cho biết có kế hoạch cho đến 2020  sẽ có  500 chiếc hải giám để tuần tra, thực thi pháp luật tại các vùng đánh bắt cá, bảo vệ  ngư trường, bảo vệ ngư  dân hành nghề, bảo vệ vùng biển và chủ quyền quốc gia  cũng như giám sát các đường hàng hải, bảo vệ an ninh hàng hải. 500 chiếc này cũng hỗ trợ cho ngư dân Hải Nam nuôi cá lồng nhiệt đới ở Khu Vành Khăn.

-Nhân dân Nhật báo Trung Quốc số ra ngày 1 tháng 8, cho biết Chính phủ TC đã cho hạ thủy một tàu tuần tra mới nhất, loại 5.400 tấn. Tàu được thiết kế đặc biệt để bảo vệ "chủ quyền biển".

Kế hoạch thi hành sự hiện diện của hải giám trên Biển Đông là để chứng minh chủ quyền của chúng trên vùng biển này.

Khi đưa một đoàn tàu gọi là « dân sự » của Cục Quản lý Đại dương hay của Cơ quan Ngư chính ra khơi, và tàu thuyền ấy được trang bị vũ khí nặng, có cả trực thăng, Bắc Kinh đang bền bỉ dùng chính sách « sự đã rồi » để áp đặt chủ quyền của họ. Trên bề mặt, đây không phải là “dùng bạo lực” để dành giật chủ quyền, và như vậy né tránh được đòi hỏi ấy của Hoa Kỳ.

b). Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức để ngư dân TC hành nghề thường trực trong một kế hoạch qui mô có chủ đích tại Trường Sa .

Hơn 1.000 tàu cá tại thành phố cảng Dương Giang, tỉnh Quảng Đông, hôm 1 tháng 8, đã hướng ra biển ngay sau khi lệnh cấm đánh cá kết thúc. Phó chủ tịch tỉnh Quảng Đông Liu Kun đã đến khai mạc lễ hội đánh bắt cá của tỉnh và cho biết thêm rằng hơn 14.000 tàu cá đăng ký tại tỉnh Quảng Đông đã xuất phát đến biển Đông từ ngày 1-8 (Nhật báo Trung Quốc số ra ngày 2-8) 

-Còn ở tỉnh Hải Nam, vào 12 giờ trưa ngày 1/8, khi lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông hết hiệu lực, ở nơi mà TC gọi là “ngư trường Tam Sa”, thì tổng cộng có 8994 tàu cá với 35.600 ngư dân Hải Nam đồng loạt đổ ra Biển Đông hành nghề. Ngay từ ngày hôm trước, 31/7, rất nhiều tàu cá Hải Nam đã tụ tập về các cảng cá ở đảo Hải Nam, chuẩn bị xăng dầu, tích trữ lương thảo. Một viên chức thuộc Sở Ngư nghiệp và Hải dương thuộc Hải Nam cho biết tất cả các cơ quan trực thuộc đơn vị này đã và đang dốc toàn lực làm công tác chuẩn bị để hỗ trợ cho ngư dân của họ đổ ra Biển Đông đánh bắt từ trưa 1/8 (Nhật báo Hải Nam ngày 1/8).

-Bản tin của Tân Hoa Xã hôm ngày 24 tháng 8, 12  loan báo tàu yểm trợ của Trung Cộng đã được đưa tới khu vực quần đảo Trường Sa để hậu thuẫn cho đoàn tàu đánh cá ấy. Đó là tàu tiếp liệu và chế biến thủy sản có tên là Quỳnh Tam Á F-8138 trọng tải 4,000 tấn của công ty Giang Hải đi từ đảo Hải Nam tới Trường Sa mới đây. Con tàu này có đủ khả năng đánh bắt trên biển, cắt lát sấy khô, ướp lạnh, đồng thời bảo đảm đầy đủ dịch vụ tiếp vận cho các tàu cá ở Trường Sa. Với khả năng tiếp viện thực phẩm, nước uống, nhiên liệu gần hơn và nhanh hơn, đám tàu đánh cá Trung Cộng tràn xuống khu vực Trường Sa từ đầu tháng 8 vừa qua có thể kéo dài thời gian trên biển thay vì phải quay về Hải Nam sớm hơn, tốn nhiên liệu, tiền bạc.

c). Các hoạt động khác để hành sử chủ quyền:

- TC dùng Tàu ngư chính  để xâm phạm vào sâu trong thềm lục địa VN như cắt  dây cáp tàu thăm dò dấu khí của VC như Bình Minh (cách Vũng Tàu, 180 hải lý) và Viking (cách Tuy Hoà, 140 hải lý) như hồi tháng 5 và tháng 6 năm 2011, với lý do “VC đã vi phạm lãnh hải của chúng.”

-Kêu gọi đấu thầu khai thác dầu khí trong phạm vi Thềm Lục Địa và Khu Đặc Quyền Kinh Tế của VN.                                                                                                                                                Vào ngày 23 tháng 6, 2012, tập đoàn dầu khí Hải Dương CNOOC của TC phân lô  (9 lô) nằm trên thềm lục địa Miền Trung và Nam của Việt Nam. Các lô trên có tổng diện tích hơn 160.000 km2, chồng lên những lô mà Việt Nam đã đánh số từ 128 đến 132, và từ 145 đến 156, và TC mời các tập đoàn quốc tế đến tham gia đấu thầu, thăm dò dầu khí. Theo Reuters trong bản tin hôm  01/08/2012, “Bắc Kinh mở ra mặt trận này nhằm áp đặt chủ quyền của mình trên vùng Biển Đông, song song với mặt trận ngoại giao và quân sự.”  Vào tháng bảy vừa qua, Vương Nghi Lâm, chủ tịch tập đoàn CNOOC đã tuyên bố với báo chí rằng lời mời thầu họ đưa ra về 9 lô ngoài khơi Việt Nam đã thu hút nhiều mối quan tâm từ các công ty Mỹ, dù từ chối cho biết đó là những công ty nào…. Mới đây, ngày 28/08/2012 , CNOOC đã loan báo một quyết định khác, mời quốc tế đấu thầu thăm dò 26 lô dầu khí, đại đa số nằm ngoài vùng Biển Đông. Tuy nhiên, theo bộ Ngoại giao VC, lô dầu khí mang ký hiệu 65/12 lại “nằm cách đảo Cù Mộc thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam khoảng 3 hải lý”

- TC cảnh cáo, áp lực hay đe doạ các công ty dầu khí   ngoại quốc đã, đang hay sẽ thăm dò dấu khí trên thềm lục địa VN, và đòi hỏi các công ty đang hoạt động rút lui, như công ty dầu Ấn độ ONGC đang tìm dầu tại các lô 127 và 128 trên thềm lục địa VN và yêu cầu rút lui khỏi khu vực ấy, dù đã làm, đã hoạt động từ nhiều năm về trước…. Trước đây, TC đã áp lực với các công ty của Hoa Kỳ, Anh, Ý, Nga  v.v.

- Ngày 29 tháng 11, 2014 vừa qua, tỉnh đảo Hải Nam ra một thông cáo cho biết các ngư phủ ngoại quốc phải xin phép đến hành nghề trong vùng Hoàng Sa, nếu không sẽ bắt giữ các thuyền đánh cá xâm nhập trái phép lãnh hải, truy tố và phạt các kẻ xâm nhập tại toà án xây trên đảo Phú Lâm. Quyết định này có hiệu lực tứ 1 tháng 1, 14.

II. Bảo vệ Chủ Quyền

TC đã chính thức loan báo TC có quyền lợi cốt lõi trên Biển Đông. Với tuyên bố này, TC coi Biển Đông là một phần lãnh thổ phải bảo vệ, kể cả bằng võ lực.

Vậy chúng trù liệu những gì để bảo vệ chủ quyền  trên Biển Đông của VN  mà chúng chiếm đóng trước một tình thế  mà cả thế giới chống đối, nhất là từ Hoa Kỳ, để có thể giữ được phần lãnh hải này?

1). Quân sự hoá Tam Sa và lực lượng quân sự cơ hữu trong phạm vi Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh quân sự của Thành Phố Tam Sa.  Các cơ sở quân sự cũng thuộc Bộ Chỉ Huy Tam Sa gồm kho tàng, phi trường, hải cảng chiến cụ cùng với quân trú phòng đóng trên các đảo của quần đảo Hoàng Sa, các kiến trúc kiên cố ở Phú Lâm, Lincoln, Hữu Nhật, Hoàng Sa, Quang Hoà, Tri tôn, Cù Mộc … và trên các đảo của quần đảo Trường Sa, các kiến trúc được xây trên các khu bãi đá Chữ Thập, bãi đá Vành Khăn, các đảo đá ngầm: Giác Ma, Chigua, Subi, Hoa Lan, Châu Viên, Len Dao, Colin, ….

Đảo Phú lâm có diện tích lớn nhất trong quần đảo Hoàng sa và đang bị Trung Quốc chiếm giữ, có một vai trò rất lớn vì dủng làm "bàn đạp" thâu tóm Biển Đông.

2).  Hải quân TC nằm ngoài  khu vực Tam Sa có nhiệm vụ bảo vệ toàn vùng.  Căn cứ hải quân Tam Á, phía Nam của Đảo Hải Nam đã được thiết lập từ lâu sẽ đóng vai trò chính, đối đầu với các lực lượng thù địch.

Với hai cầu tầu dài 800 m, đã xây xong, đủ cho  8  HKMH cùng đậu cùng một lúc, và 3 cầu  tàu cho các tầu ngầm nguyên tử 094, Jin Class, trang bị hoả tiễn tầm xa, mang đầu đạn nguyên tử, hay Song S-20 trang bị hoả tiễn Yingji-8 có thể tấn công HKMH  đối phương từ dưới đáy biển, căn cứ Tam Á có một hầm có thể chứa được 20 tầu ngầm 094, được dùng làm bàn đạp để yểm trợ các mũi xung kích cho cuộc chiến. Hiện nay, chúng mới có 5 chiếc.

-Ngoài ra, để yểm trợ cho căn cứ Tam Á, TC vừa thành lập một lữ đoàn hoả tiễn 827 ở tỉnh Quảng Đông. Theo United Daily News của Đài Loan số ra ngày 02/07/2012 thì Lữ đoàn 827 này là một phần của chiến lược đối phó với những nước tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Bắc Kinh. 827 có các hoả tiễn Đông Phong, DF-21D và Đông Phong, DF -16.  Hoả tiễn DF -21D là hoả tiễn diệt chiến hạm, có tầm bắn từ 2000 đến 3000 km, có thể bắn trúng mọi mục tiêu đang di chuyển, với độ chính xác rất cao. Còn DF- 16 là hoả tiễn mới, có tầm bắn 1.200 km, có thể tới Hà nội, vì chỉ cách xa 1,000km.

3). Hoạt động quân sự để bảo vệ chủ quyền.

-Ngày 31/7, đúng dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Quân đội giải phóng nhân dân, Bộ Quốc phòng TC tuyên bố thành lập "một hệ thống tuần tra trực chiến" tại các vùng biển "thuộc quyền tài phán" của TC, nghĩa là Biển Đông của Việt nam.

Đồng thời đài truyền hình Phượng Hoàng loan báo TC có các loại chiến đấu cơ cất cánh từ căn cứ không quân trên đảo Phú Lâm như máy bay ném bom JH-7 và Su-30MKK của Lực lượng Không Hải quân TC. Các phi cơ này sẽ được sử dụng để tiêu diệt mục tiêu “gây hấn” trên phạm vi Biển Đông. Phượng Hoàng còn cho biết rằng với sự trợ giúp của các máy bay tiếp nhiên liệu trên không, tầm tấn công của những chiến đấu cơ này còn có thể “tiếp cận các căn cứ của Mỹ ở Guam, Australia và Diego Garcia".

Ngoài phi trường ra, một số hải cảng cũng sẽ được xây dựng thêm trên đảo Phú Lâm và các đảo khác để yểm trợ hoạt động của các tàu hải quân cỡ lớn (bao gồm cả tàu khu trục) được Bắc Kinh điều động đến Biển Đông làm nhiệm vụ giữ chủ quyền và bành trướng.

 Tàu vận tải chở khách lớn nhất TC có tên "chuỗi ngọc lục bảo Bố Hải" lớp Roro đã rời cảng Yên Đài (một cảng nằm ở bờ biển phía đông TC) xuống phía Nam. Tàu được nguỵ trang là “tàu dân sự” với trọng tải 36.000 tấn được thiết kế để có thể chở được quân nhân và phương tiện quân sự hạng nặng. Tàu dài 178m, rộng 28m, có thể chở 2.000 quân và hơn 300 chiến cụ cùng lúc. Đây là chiếc tàu đầu tiên thuộc lớp này. TC đang có kế hoạch đóng 3 chiếc cùng lớp. Theo lời của giám đốc Cục vận tải quân sự thuộc quân khu Tế Nam, những chiếc tàu thuộc lớp này cho phép chuyển một số lượng lớn quân và chiến cụ. 

Tân Hoa Xã loan tin chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh đã trở về cảng ở Thanh Đảo ngày 1 tháng 1 năm 2014,  sau khi kết thúc 35 ngày « thử nghiệm và huấn luyện » đầu tiên tại Biển Đông. Tháp tùng Liêu ninh có khu trục hạm, hội tống hạm với tàu ngầm theo đội hình giống như đội hình di chuyển của HKMH Hoa Kỳ.

Thực chất của hoạt động này là để thị uy với các nước làng giầng, nhất là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam.  Trong một bài viết cách đây khoảng 15 năm,  tôi đã ghi nhận Tung cộng còn dự trù xây dựng thêm 3 HKMH nữa để thành lập 2 hạm đội Biển Xanh như chúng  quảng cáo từ cuối thập niên 1990. Các HKMH này sẽ đồn trú tại căn cứ Tam Á (Du Lâm), Hải Nam. Về các kiến trúc quân sự, doanh trại, hải cảng, quân trú phòng, cơ sở thông tin viễn liên, tàu ngầm nguyên tử, kho đạn v.v., xem hình  trong cuốn Chủ Quyền Lãnh Thổ và Bành Trướng Bắc Kinh.  

Ngày 01/07/2012 Tân Hoa Xã đưa tin Bắc Kinh đã bố trí bốn tàu hải giám tại đảo đá ngầm mang tên Đá Châu Viên do Việt Nam đòi hỏi chủ quyền tại quần đảo Trường Sa, mà phía TC gọi là đảo Hoa Dương, làm căng thẳng thêm tình hình tại Biển Đông. Đá Châu Viên, tên quốc tế là Cuarteron Reef, là một bãi đá ngầm của quần đảo Trường Sa bị quân TC chiếm đóng từ năm 1988, cùng với 5 đảo đá khác là Gạc Ma, Chiqua, Đá Ba Đầu, Len Đảo và Colin. Châu Viên là một đảo san hô, phần cao nhất ở phía bắc, có độ cao 1,5 m so với mặt biển. Kể từ năm 2011, TC đã cho xây dựng những pháo đài kiên cố và sân bãi có thế chịu đựng được sức gió với vận tốc 71 hải lý/ 130 km giờ, tức cấp 10/12 theo thang sức gió Beaufort. Bắc Kinh còn trang bị các thiết bị thông tin cao tần và siêu cao tần, radar cũng như đại bác dành cho hải quân và đại bác phòng không trên đảo. TC có thể sử dụng đảo san hô này làm căn cứ cho các chiến hạm của họ.

Tháng 1 năm 2014, Bắc  kinh loan báo sẽ cho một tàu Hải Giám 5,000 tấn đậu thường trực tại Phú Lâm để đi tuần tra.

-------------

Với kế hoạch này, TC kéo dài hoạt động cả chục hay trăm năm, Biển Đông của Việt nam sẽ trở thành lãnh hải của Trung cộng; cũng như Quảng Tây, Vân nam hiện nay chỉ là một cái gì tồn tại trong ký ức của một ít dân Việt, rằng các nơi đó xưa kia là của Việt nam. Kẻ đóng góp thành quả này cho Trung Cộng phải ghi nhận là công lao họ Hồ và các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Đảng Cộng Sản Việt nam. Trước kia, dân tộc Việt mất Quảng Tây, Vân Nam, dân Việt còn đường tiến phía Nam. Biển Đông là không gian sinh tồn của dân Việt mà mất, thì sẽ mất tất cả. Về vấn đề này trong một bài viết cách đây nhiều năm, tôi đã nói rằng hàng chục triệu dân Việt từ Thanh Hoá xuống mãi tận Cà mâu  dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN nếu sinh sống bằng nghề đánh cá phải trở thành con dân nhà Hán, treo cờ TC trên thuyền, sẽ được bình yên. Và rồi toàn thể dân tộc, đất nước Việt nam cũng sẽ trở thành một bộ phận của Đại hán.

Đó là tội ác ghê gớm của chúng ./.

Cước chú:

1). Quân đội TC xây các bể hứng nước mưa tại ven phi đạo để chứa nước từ phi đạo chảy xuống. Ngay sau khi phổ biến Phần I, một cựu sinh viên trường Cao Đẳng Quốc Phòng gọi cho tôi. Trong điện đàm, tôi có nói đến vấn đề nước uống là nhược điểm trầm trọng của quân đội Trung cộng tại Phần II, khi chúng xân dựng  các công sự, chiếm đóng các đảo của Việt nam như hiện nay. Vị này có khuyến cáo là Thủ Tướng VC Nguyễn tấn Dũng nên hành động ngay. Cách đây không lâu , Dũng dám tuyên bố bảo vệ lãnh hải. Với tàu ngầm Kilo trang bị hoả tiễn tối tân và với hoả tiễn siêu thanh đặt mua cua Ấn Độ, VC có thể phá huỷ hết các kiến trúc quân sự khắp nơi một cách dễ dàng, và tiêu diệt hết quân chiếm đóng bằng cách phóng một loạt hoả tiễn trong cùng một lúc. Riêng về đảo Phú Lâm, chỉ cần phóng 6 hoả tiễn vào đoạn giữa phi đạo trên đảo Phú Lâm, các bể chứa nước sẽ vỡ hết và quân trú phòng sẽ phải đầu hàng….Đạo quân “Dân Quân Tự Vệ Biển” mà Quốc Hội VC lập ra cách đây 3 năm, chỉ việc tiếp thu các đảo ấy.

(2) Số 45 hội viên của Hội Đồng thành phố này chỉ là trò bịp bợm, đánh lừa quốc tế. Quảng cáo này làm cho người ta có cảm tưởng rằng ở các quần đảo liên hệ có tới cả triệu dân sinh sống nên có nhiều đại biểu như vậy. Thực tế trên đảo Phú Lâm chỉ có doanh trại với các ngôi nhà trệt để quân đội đồn trú. Trên các đảo khác cũng chỉ có quân nhân mà thôi. Không có nhà cửa cho dân sinh sống, và rất ít đường xá lưu thông vì các đảo quá nhỏ.

(3) Văn phòng Thành Phố đặt trong toà nhà 2 tầng, là cơ sở của quân đội. Đó là 1 trong 2 toà nhà xây giống nhau được tuyên bố là văn phòng  hành chánh để phục vụ dân chúng.

(4) Việc làm như vậy đã xảy ra trước đây là một thí dụ. Năm 2000, VC và TC đã ký Hiệp Ước Nghề Cá trong Vịnh Bắc Việt. Hiệp Ước có chia dôi vùng rõ rệt. Tuy nhiên, TC rất tham lam, nên đòi được thêm ‘đánh cá chung’. Mọi người hiểu là mỗi bên mang tàu bè vào lập thành một đội tàu biển để hành nghề trong vùng biển của phía bên kia, rồi chia đôi.  Sau khi chót ký rồi Quốc Hội VC không dám phê chuẩn, vì lẽ TC có nhiều đội  tàu cỡ lớn khoảng 200 Mã Lực hay hơn và lưới dùng để đánh bắt cá dài khoảng 60 hải lý, do 2 tàu kéo ( trawlers)  ở 2 đầu lưới  để vét cá. Chỉ có Trung Cộng có các tàu ấy, còn phía VC, thì chỉ có thuyền làm bằng gỗ. Ai cũng biết tàu như vậy là của TC. Một hay nhiều hạm đội to lớn hành nghề như vậy  trên Biển Đông sẽ bị quốc tế phanh phui. Vì trì hoãn quá lâu, nên tháng 2 năm 2002 Giang Trạch Dân sang tận Hà nội đòi Nông đức Mạnh phải cho Quốc Hội phê chuẩn để thi hành. Mãi tới 2 năm sau Quốc Hội VC mới thông qua. So với Hiệp Ước phân chia lãnh thổ trên vùng biên giới, hiệp ước ấy được phê chuẩn trong vòng 6 tháng sau khi ký.

 

GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM .

BẢN DỊCH RA TIẾNG ANH

TC SỬ DỤNG SỨC MẠNH

DÀN KHOAN HD 981

HẬU DÀN KHOAN HD 981

 

Trở về trang Hoàng Sa Trường Sa

 

 

Nguyễn Văn Canh

-------oo0oo-------

lacomau
Việt Cộng đối ngoại thì nhu nhược, bán nước,
đối nội thì tàn ác và hà khắc với nhân dân.


Những hình ảnh đẹp của Cộng Đồng Việt Nam

ucchau
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

Covang

CoVang

ucchau
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

congdong

congdong

congdong

congdong

congdong

covang
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

covang
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

 

Home Page Vietlist.us