tittle

bottom


Search Vietlist.us
Search the Web

Vietnam

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

Trang Tôn Giáo của Vietlist.us dùng đăng tải những bài nghiên cứu, thuyết giảng về tôn giáo. Chúng tôi chấp nhận cả những bài phê phán tôn giáo với điều kiện bài viết phải có ngôn từ đứng đắn và có lý luận rõ ràng. Xin lưu ý là các bài viết không nhất thiết phản ảnh lập trường của nhóm Vietlist. Xin gởi bài viết cho chúng tôi tại vietlist09@yahoo.com.

------------oo0oo-------------

Thượng Đế và Khoa Học

Tác giả: Frank Lee

Chuyển ngữ: Hồng Văn

Những khám phá gần đây trong vật lý lý thuyết và vũ trụ học hàm ý sâu xa về sự tồn tại của Thượng Đế. Các nhà vật lý lý thuyết đã đưa ra bằng chứng vững chắc cho sự tồn tại một thế giới nhiều chiều, có thể là "thế giới thiêng liêng" của Thượng Đế và các thiên thần. Các nhà vũ trụ học đã khám phá ra một lượng lớn vật chất không thấy được (năng lượng tối và vật chất tối lạnh) với các thuộc tính hoàn toàn khác với vật chất bình thường. Phải chăng chúng đã tạo nên "các hạt thiêng liêng"?
Tại sao ta không thể thấy Thượng Đế?
Một cách giải thích khoa học

Các nhà vật lý vừa khám phá ra cơ chế khiến ta không thấy được Vương Quốc của Thượng Đế bằng sóng điện từ.

++++++++++++++

Khi tôi tốt nghiệp khoa vật lý, tôi là người vô thần. Với tôi, Thượng Đế là sản phẩm của sự ngu dốt, do thiếu kiến thức khoa học mà ra. Nếu người ta hiểu biết rõ ràng các quy luật tự nhiên như các nhà vật lý, họ sẽ không tin sự tồn tại của Thượng Đế. Vào lúc đó, tôi không biết rằng hầu hết các nhà vật lý vĩ đại là người tin tưởng có Thượng Đế như Newton, Kepler, Planck, Heisenberg và Einstein.

Mười năm sau, tôi đã lấy được bằng Tiến sĩ về vật lý, tôi đã trở thành tín đồ Thiên Chúa Giáo - chẳng phải vì tôi đã tìm ra bằng chứng khoa học chắc chắn về Thượng Đế. Như hầu hết các tín đồ, tôi cảm thấy phải có một Thượng Đế hằng hướng dẫn tôi, nếu không, sẽ không thể có các sự kiện rất trùng hợp đã xảy ra với tôi.

Sự tồn tại của Thượng Đế rất thực, đến nỗi tôi từng tự hỏi: Thượng Đế có thể ở đâu? Tại sao tôi không thể thấy Ngài? Sao kỹ thuật hiện đại không thể phát hiện ra Thượng Đế? Vì tôi đã học về vật lý, tôi tin mọi hiện tượng tự nhiên chắc phải có cách giải thích vật lý. Nếu Thượng Đế thực sự tồn tại, các câu hỏi này có thể giải đáp được bằng định luật vật lý. Tuy nhiên, tôi chẳng biết làm sao và ở đâu có thể tìm ra lời giải đáp khoa học. Chắc không thể tìm ra câu trả lời nào cả.

Vào năm 2000, gần 10 năm sau khi trở thành tín đồ Thiên Chúa, tôi tình cờ đọc được một bài báo về lý thuyết dây. Chuyên ngành của tôi là vật lý sinh học, không phải vật lý lý thuyết, nhưng tôi rất mê các vấn đề về vũ trụ của chúng ta, đặc biệt là các khái niệm mới. Lý thuyết dây quả là đã đưa ra một khái niệm mới về vũ trụ của chúng ta. Sau khi đọc bài báo đó, tôi rất xúc động. Đây rồi! Phải có Thượng Đế! Có thể Ngài chỉ ở cách ta có một centimeter thôi nhưng ta không thể phát hiện ra. Các nhà vật lý vừa khám phá ra cơ chế khiến ta không thể thấy Vương Quốc của Thượng Đế!

Lý thuyết dây vừa phát triển vài thập kỷ gần đây, với mục tiêu trở thành "lý thuyết về mọi thứ" (the theory of everything), tức là, hợp nhất cả bốn lực cơ bản - hấp dẫn, điện từ, tương tác hạt nhân mạnh và yếu. Một khám phá có tính cách mạng của lý thuyết là toàn bộ vũ trụ có số chiều không gian chín hay mười, chứ không phải ba chiều (dài, rộng và cao). Vậy tại sao ta chỉ thấy có ba chiều thôi? Trong phiên bản trước của lý thuyết dây, các chiều kia được xem là quá nhỏ nên không thể quan sát được. Vì vậy, toàn thể vũ trụ chủ yếu giống như thế giới ba chiều. Nếu điều này đúng, chẳng có chỗ nào cho Thượng Đế cả. May thay, chỉ vài năm trước năm 2000, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu nhận ra các chiều kia có thể lớn như ba chiều bình thường. Lý do chúng ta không thấy các chiều đó là toàn bộ vật chất và sóng điện từ (các quang tử - photon) bị giới hạn trong một vũ trụ con ba chiều gọi là "thế giới màng" (braneworld).

Hiện nay, sứ giả chủ yếu giúp ta thấy và phát hiện các sự vật là sóng điện từ, bao gồm: sóng vô tuyến, sóng viba, hồng ngoại, ánh sáng thấy được, tia cực tím và tia X. Sóng điện từ bị giới hạn trong thế giới màng của chúng ta. Điều này giải thích ngay tại sao ta không thể phát hiện ra Thượng Đế nếu Ngài sống bên ngoài thế giới màng của chúng ta. Mối liên hệ giữa thế giới màng của chúng ta (ba chiều) và toàn bộ vũ trụ (mười chiều) giống như màn hình TV (hai chiều) trong nhà chúng ta (ba chiều). Giả sử có một tạo vật bị giới hạn trên màn hình TV, nó không thể thấy chúng ta cả khi chúng ta chỉ cách nó một centimeter. Tương tự, nếu Thượng Đế sống trong không gian mười chiều nhưng ở bên ngoài thế giới màng của chúng ta, ta không thể thấy Ngài dù Ngài chỉ cách ta một centimeter.

Cơ chế nào giới hạn vật chất và các quang tử trong thế giới màng của chúng ta?

Ta biết rằng toàn bộ vật chất trong thế giới chúng ta hợp thành từ các nguyên tử. Mỗi nguyên tử gồm một hạt nhân và các điện tử bao quanh nó. Hạt nhân chứa các dương tử (proton) và trung hoà tử (neutron), những hạt này lại tạo thành từ các hạt vi lượng (quark). Điện tử và hạt vi lượng là các hạt sơ cấp không thể chia nhỏ hơn được. Ngoài các hạt sơ cấp tạo nên vật chất, còn một loại hạt sơ cấp khác giúp truyền lực cơ bản giữa các hạt vật chất. Ví dụ, lực điện từ truyền bằng quang tử (photon), lực hấp dẫn truyền bằng hấp dẫn tử (graviton). Chắc bạn đã biết lực từ lan truyền bằng từ trường. Tương tự, lực điện từ lan truyền bằng điện từ trường. Trong vật lý lượng tử, một "trường" (field) cũng có thể xem ("lượng tử hoá" - quantized) là hạt. Quang tử là tên hạt của trường điện từ. Hấp dẫn tử là tên hạt của trường hấp dẫn. Một trường có thể là tĩnh (như từ trường) hay động (như sóng điện từ).

Theo lý thuyết dây, một hạt sơ cấp có thể xem như một "dây" (string) với chiều dài cực ngắn. Tất cả các thuộc tính (khối lượng, năng lượng, ...) của hạt sơ cấp vốn là các mẫu rung động của dây đó. Dây hạt (particle string) tương tự như dây đàn violon, sẽ tạo nên các nốt nhạc khi rung động. Tương tự, các mẫu rung động khác nhau của dây hạt tạo ra các thuộc tính khác nhau. Các mẫu rung động này lại phụ thuộc vào các đầu dây. Dây hạt có thể "mở" (open) - có hai đầu riêng biệt như dây đàn - hay "đóng" (closed) - không có đầu dây, như cái vòng. Không như dây đàn, có hai đầu bắt chặt trên ván, các đầu dây hạt gắn vào một "màng" (brane - như trong membrane), chính là một không gian hai, ba, hay nhiều chiều hơn. Vì hai đầu cố định, hạt dây-mở (open-string particle) không thể thoát ra khỏi màng đó. Tuy nhiên, hạt dây-đóng (closed-string particle) có thể di chuyển bất cứ nơi nào vì nó không có các đầu dây cố định. Về mặt toán học, các đầu dây khác nhau ứng với các điều kiện biên (boundary conditions) khác nhau khi giải phương trình cho mẫu rung động.

Các thuộc tính của hạt sơ cấp trong thế giới của chúng ta có thể nhận biết được qua thí nghiệm. Mẫu rung động của dây hạt có thể nhận được từ việc giải phương trình cơ bản trong lý thuyết dây với điều kiện biên thích hợp (tương ứng với các đầu dây). Người ta nhận thấy, khi đối chiếu các thuộc tính hạt với mẫu rung động, hấp dẫn tử phải là dây đóng, trong khi tất cả các hạt khác phải là dây mở với các đầu dây gắn chặt trong một màng ba-chiều. Điều này cho thấy toàn bộ vật chất và quang tử phải bị chận lại trong một thế giới màng ba-chiều. Thứ duy nhất có thể thoát khỏi thế giới màng đó là hấp dẫn tử.

Còn Vương Quốc của Thượng Đế trong không gian nhiều chiều hơn ("vũ trụ lớn" - bulk universe) thì sao? Vật chất của chúng hầu như tạo thành từ các hạt sơ cấp với dây đóng, nhờ đó chúng tự do di chuyển khắp nơi. Các hạt của chúng không thể có điện tích gì nên không tương tác với các quang tử được, vì quang tử là hạt dây-mở, chỉ có trong thế giới màng của chúng ta. Sóng điện từ (quang tử) sẽ đi xuyên qua vật chất của chúng mà không bị phản xạ lại. Do đó, cả khi vật chất của chúng (bao gồm sự sống) đi vào thế giới màng của chúng ta, sóng điện từ vẫn không thể giúp ta phát hiện ra được.

Tất cả các hạt vật chất của chúng ta có thể tương tác với hấp dẫn tử - thuộc loại dây đóng. Rất có khả năng là vật chất trong Vương Quốc của Thượng Đế cũng có thể tương tác với hấp dẫn tử. Nên, về nguyên tắc, ta có thể phát hiện ra Thượng Đế qua sóng hấp dẫn (các hấp dẫn tử). Tuy nhiên, sóng hấp dẫn cực kỳ yếu. Các nhà vật lý chưa thể tạo ra sóng hấp dẫn phát hiện được (detectable gravitational waves). Trong tương lai, với hiểu biết khoa học và kỹ thuật tốt hơn, ta có khả năng chứng minh được sự tồn tại của Thượng Đế bằng cách dùng sóng hấp dẫn để trực tiếp phát hiện ra Ngài.

(Còn tiếp)

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Vấn Đề Chứng Minh Thượng Đế

Trần Tiên Long

http://www.sachhiem.net/images/nha.jpg

Có một nguyên tắc rất phổ biến rằng không ai có thể chứng minh được một điều phủ định. Chẳng hạn, việc chứng minh Thượng Đế không hiện hữu là một việc làm vô phương. Bởi vì chúng ta đang ở trong một hành tinh rất bé nhỏ và có giới hạn trong vũ trụ vô biên nên không thể nào chúng ta có thể kiểm chứng được toàn cõi vũ trụ này để có thể kết luận được rằng Thượng Đế không hiện hữu.

Thực ra, chính nguyên tắc này tự nó lại mâu thuẩn với chính nó. Khi khẳng định “không ai có thể chứng minh một phủ định” thì lại chính nó đang là một chứng minh phủ định nhưng chưa hề có kiểm chứng. Có nghĩa là không ai có thể chứng minh được nguyên tắc này hiển nhiên đúng; do đó, người ta có đủ lý do để tin tưởng rằng việc chứng minh một phủ định không phải là điều vô phương.

Có rất nhiều thứ mà người ta cần phải tưởng tượng ra sự hiện hữu của chúng như là những hữu thể có thật để giải thích những hiện tượng dị thường trong vũ trụ. Nhưng với thời gian và với những khám phá mới, người ta loại bỏ dần những hữu thể đó và không bao giờ còn phải sử dụng đến chúng trong những giải thích khác.

Thực vậy, thí dụ, khoa học đã chứng minh cho chúng ta biết những hữu thể tưởng tượng như “phlogiston”, “ether”, và hành tinh “Vulcan” không bao giờ hiện hữu như những thực thể. Đã có một thời gian dài người ta phải đưa vào các định đề khoa học những hữu thể tưởng tượng như “phlogiston” để giải thích hơi nóng, “ether” để giải thích sự di chuyển của ánh sáng trong chân không, và hành tinh “Vulcan” để giải thích những xáo trộn trong quỉ đạo của hành tinh Mercury. Ngày nay, những thứ đó không còn cần thiết nữa để giải thích bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ. Chúng đã lần lượt đi vào quên lãng vì không phải là những thực thể có thực.

Cũng vậy, Thượng Đế là một ý niệm tưởng tượng được đưa ra để giải thích những gì mà con người chưa biết tường tận. Người ta đã dùng ý niệm này để khỏa lấp mọi khoảng trống của kiến thức con người. Ngày xưa, người ta mang Thượng Đế để giải thích mưa bão, động đất, núi lửa, sóng thần, v/v… Và ngày nay, không ai còn phải mang Thượng Đế để giải thích những hiện tượng như vậy. Những khẳng định của khoa học thực nghiệm không bao giờ mang một ý nghĩa tuyệt đối như trong luận lý học thuần lý, nhưng thường là rất khả tín, nằm bên ngoài sự nghi nghờ có lý lẽ (beyond reasonable doubt). Nếu chúng ta đòi hỏi tính tuyệt đối trong những khẳng định của khoa học thực nghiệm thì chúng ta không thể tin được bất cứ điều gì của khoa học.

Chẳng có nhà vô thần nào bỏ công đi tìm bằng chứng cố gắng chứng minh một phủ định về Thượng Đế, bởi vì họ đều biết rõ ràng về nguyên tắc ai là người phải trưng bằng chứng (burden of proof). Nguyên tắc này sẽ dẫn đến một kết luận ngụy biện, sai lầm khi đặt trách nhiệm trưng bằng chứng không đúng bên.

Để dễ hiểu hơn, chúng ta chỉ cần đưa ra một nguyên tắc căn bản trong luật học, rằng một người được xem là vô tội cho tới khi được chứng minh là có tội. Vậy trách nhiệm chứng minh nằm ở luật sư công tố, không phải nơi bị can. Nếu luật sư công tố không chứng minh được bị can phạm tội thì bị can không cần phải chứng minh rằng mình không có tội mà vẫn vô tội. Trong một cuộc tranh luận, bên có trách nhiệm trưng bằng chứng là bên tuyên bố một vật gì hiện hữu, chẳng hạn như có Thượng Đế, có ma quỉ, có người hành tinh, có ông già Noel, hoặc có những quyền lực siêu nhiên. Nếu người hữu thần không thể chứng minh có Thượng Đế bằng những bằng chứng hẳn hoi thì phải kết luận là không có Thượng Đế, thế là xong; người vô thần không cần phải chứng minh một điều gì khác. Khi người hữu thần đòi hỏi người vô thần phải trưng bằng chứng chứng minh không có Thượng Đế là họ đang sử dụng ngụy biện “burden of proof” để hòng đi đến kết luận là có một Thượng Đế hiện hữu; dĩ nhiên nếu người vô thần không chứng minh được, vì họ dư biết rằng sẽ là rất khó chứng minh hơn cho một phủ định. Lối lý luận như vậy rõ ràng đã đi đến một kết luận sai lầm, ngụy biện vì đã đặt trách nhiệm trưng bằng chứng không đúng bên.

Điều các nhà khoa học muốn chứng minh là không cần phải mang Thượng Đế ra để giải thích bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ như các nhà hữu thần đang làm, và đó chính là công việc của các nhà khoa học. Mang Thượng Đế ra để giải thích chỉ đơn giản là cái cớ để từ chối giải thích, vì phải xây dựng thêm một giả định mới, phức tạp và còn khó giải thích hơn điều đang cố gắng giải thích. Đó là lối giải thích thụt lùi, làm điều muốn giải thích rắc rối và tối tăm thêm.

Những giải thích của các nhà khoa học dựa trên những quan sát và các dữ kiện thâu thập được luôn luôn là những giải thích khả tín hơn cả. Loại trừ Thượng Đế để cố gắng đi tìm những nguyên nhân tự nhiên thì cũng giống như việc các nhà khoa học đã từng làm để loại trừ “phlogiston” trong việc giải thích hơi nóng, “ether” trong việc giải thích sự di chuyển của ánh sáng trong chân không, và hành tinh Vulcan trong việc giải thích những xáo trộn trong quỉ đạo của hành tinh Mercury. Những hữu thể tưởng tượng đó đương nhiên đều là những thứ phi vật chất, cũng hoàn toàn giống như ý niệm Thượng Đế, vì chúng không phải là những thực thể có thực.

Khi tôi đưa bài dịch “Hai Lối Chứng Minh Không Có Thượng Đế” của Quentin Smith vào các diễn đàn thì đã có một số ý kiến cho rằng: “Đối tượng của khoa học là vật chất, mà vật chất là những gì có thể cân đo đong đếm. Thượng Đế đâu có phải là vật chất. Khi được hỏi có Thượng Đế hay không thì nhà khoa học chân chính sẽ trả lời. Tôi không thể trả lời được vì Thượng Đế không phải là đối tượng nghiên cứu của tôi. Ngài là phi vật chất. Người ta không thể chứng minh có TĐ hay không, mà chỉ là cảm nhận” (Bs. Phùng Văn Hạnh). Đó cũng là ý kiến chung của nhiều đọc giả, kể cả những quí vị có học vị cao như tiến sĩ, giáo sư, kỹ sư, hay bác sĩ.

Có lẽ cái tựa của bài viết đã làm nhiều người hiểu lầm nếu không đọc kỹ toàn bài. Rõ ràng ở phần kết luận, Smith đã viết:

“Để kết luận, tôi xin khẳng định rằng, thứ nhất khoa học hiện nay không chấp nhận có Thượng Đế hiện hữu. Và thứ hai, lý luận thông thường mà chúng ta sử dụng hằng ngày khi áp dụng vào mọi sự dữ chúng ta trông thấy cũng tự nó không chấp nhận có Thượng Đế. Do đó, tôi nghĩ quan điểm hữu thần rất là vô lý, còn quan điểm vô thần thì hữu lý hơn.”

Và hơn nữa, ngay khi mới vào đề, Smith cũng đã thẳng thừng tuyên bố rõ ràng rằng ông muốn phản bác những lập luận của những nhà hữu thần có kiến thức khoa học đã từng sử dụng thuyết Big Bang để cố chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Điều còn rõ ràng hơn nữa là tất cả các luận chứng của các nhà hữu thần trong suốt tiến trình lịch sử đã thất bại trong việc chứng minh có Thượng Đế. Thuyết Big Bang là cái phao cuối cùng để cho những nhà hữu thần bám víu, bởi vì thuyết này đã bị khựng lại ở một điểm dị thường (singularity), ở đó tất cả mọi sự đều biến mất, và người ta đã đi đến kết luận rằng đó là cái điểm bắt đầu của vũ trụ, phải cần có một tác nhân kích hoạt làm vũ trụ khởi động. Chính đó là Thượng Đế toàn năng đã hiện hữu trước khi vũ trụ được thành hình. Như vậy, thuyết này hoàn toàn đối nghịch với câu chuyện tạo dựng trong kinh Sáng Thế Ký, nhưng ít ra cũng còn vớt vát ở điều cần thiết phải có một đấng Sáng Tạo như là nguyên nhân đầu tiên.

Smith dùng hàm số sóng của các nhà khoa học hiện đại để phản biện lại lối lập luận như vậy, vì hàm số này cho xác quyết có một xác suất 95% vũ trụ có thể tự tạo, không cần phải có một ai đó khởi động lúc ban đầu. Mãi gần 15 năm sau, khi xuất bản cuốn Sự Thiết Kế Lớn / The Grand Design, tác giả Stephen W Hawking mới xác nhận quan điểm của Smith nhờ những dữ kiện ông thu thập được khi quan sát. Như vậy, ở điểm này, triết học đã đi trước khoa học. Khoa học chỉ làm công việc kiểm chứng những suy tư của triết học.

Khoa học nào cũng vậy. Ban đầu chỉ là giả thuyết. Nếu những dữ kiện thu thập trái nghịch với giả thuyết thì người ta sẽ điều chỉnh giả thuyết sao cho phù hợp, hoặc có khi phải từ bỏ vĩnh viễn giả thuyết đó. Khoa học không thể đi nghịch với các dữ kiện thâu thập. Cũng như thuyết tiến hóa, ban đầu nó chỉ là một giả thuyết, nhưng càng ngày càng nhiều khám phá mới của các ngành khoa học khác nhau đã xác nhận giả thuyết này. Ngày nay, tiến hóa đã trở thành sự kiện, và người ta đã có thể chứng minh được ở lĩnh vực vi mô. Có bàn cãi về tiến hóa thì chỉ là bàn cãi về cơ chế tiến hóa như thế nào. Và thuyết tiến hóa đã hoàn toàn thay thế thuyết sáng tạo ở trong các bộ môn khoa học. Chính giáo hoàng John Paul II cũng đã công khai công nhận thuyết tiến hóa, cho dù Vatican đã chi phí rất nhiều tiền bạc và công sức để cố gắng phản bác thuyết khoa học này hơn 100 năm qua.

Như vậy, thuyết Big Bang là một giả thuyết khoa học được các nhà hữu thần, không phải các nhà vô thần, sử dụng trong suốt mấy thập niên qua để cố gắng chứng minh sự cần thiết phải có một Thượng Đế. Chúng ta dèm pha thuyết này, phỉ báng và mạ lị các nhà khoa học, thực ra là chúng ta đang mạ lị và phỉ báng những nhà hữu thần mà chúng ta đang cố gắng bênh vực. Quentin Smith và Stephen W Hawking dùng hàm số sóng chỉ để chứng minh cho chúng ta biết một điều, rằng việc các nhà hữu thần mang thuyết Big Bang ra để gán cho Thượng Đế như là nguyên nhân đầu tiên khởi động vũ trụ đã trở thành thừa thãi, không còn cần thiết nữa. Vũ trụ có thể tự sinh. Đó là một khám phá mới của khoa học để trả lời cho câu hỏi từ ngàn xưa: vũ trụ đến từ đâu?

Khi các nhà khoa học dùng vũ trụ học để bàn về Thượng Đế, chính là họ chỉ muốn bàn về Thượng Đế của các nhà khoa học như là nguyên nhân khởi đầu của vũ trụ, không phải là Thượng Đế hữu ngã, có nhân tính của Thiên Chúa giáo. Thượng Đế của Thiên Chúa giáo được gọi là Thiên Chúa và là một hữu thể toàn năng, toàn thiện, toàn trí, công bình vô cùng, hay thương xót, và thường can thiệp vào công việc của loài người. Chỉ cần đơn giản dùng lý luận thuần lý của Parmenides, một triết gia cổ Hy lạp, cũng đủ đánh đổ ý niệm Thiên Chúa, bởi vì không thể có sự hiện hữu của bất cứ thứ gì có những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau. Epicurus lý luận như sau từ mấy ngàn năm trước:

http://www.sachhiem.net/SACHNGOAI/Hinhanh/PEOPLE/QuentinSmith.jpgVà Quentin Smith, một triết gia, cũng đã dùng lối lý luận thuần lý này, điều mà ông gọi là lối lý luận trong đời sống hằng ngày, để loại trừ ý niệm Thượng Đế của Thiên Chúa giáo khi ông bàn về vô vàn sự dữ.

Tóm lại, khoa vũ trụ học, một bộ môn thuộc khoa học thực nghiệm, chỉ có thể đi đến kết luận rằng không cần phải mang Thượng Đế để gán cho một nguyên nhân đầu tiên làm vũ trụ khởi động. Thượng Đế ngày nay đã trở thành thứ thừa thãi trong tất cả mọi giải thích của khoa vũ trụ học. Mọi hiện tượng trong trời đất đều có những nguyên nhân tự nhiên. Vai trò của Thượng Đế cũng giống như những hữu thể tưởng tượng “phlogiston”, “ether”, và hành tinh “Vulcan” một thời cần thiết để giải thích những gì khi khoa học chưa giải thích được.

Và Thiên Chúa của Thiên Chúa giáo thì tuyệt đối không thể hiện hữu, bởi vì luận lý học không chấp nhận một hữu thể có những thuộc tính mâu thuẫn loại trừ nhau. Ý niệm Thiên Chúa cũng vô lý giống như một hình tròn nhưng lại có những góc cạnh vuông, hay con kỳ lân màu tím nhưng lại vô hình. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa giáo dạy chúng ta cần phải có một đức tin mới có thể tin được những điều vô lý.

Còn việc “cảm nhận Thượng Đế” theo nghĩa thông thường, đại chúng, như ông Trời, Đạo… thì hoàn toàn có tính chủ quan, rất là con người. Giống như khi chúng ta đi trong đêm tối, có người cảm thấy như có ma đang theo dõi mọi cử động của họ, có người lại không cảm nhận được điều đó. Và khi họ nói cho chúng ta biết về ma, mỗi người sẽ nói mỗi cách khác nhau, hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Tâm lý học về ý thức, vô thức, hay tiềm thức có thể giải thích được những điều này. Ngày nay, có rất nhiều người không còn tìm Thượng Đế trong các giáo điều tôn giáo, nhưng tìm Thượng Đế ở tại con tim hay tại lương tâm của mình. Đó là ý niệm về Thượng Đế nội tại thường có trong những thực hành thiền hay yoga.

source: email from reader.

----------o0o----------

 

Toi Ac CSVN

------oo0oo------

HsTs

CoVangVNCH

history
Hình chụp của 1 phóng viên Liên Xô: Một cảnh đấu tố tại miền Bắc có hình thờ các lãnh tụ Cộng sản được treo trên cao. Trong hình một thanh niên có vẽ có học thức, đang bị Cộng Sản đấu tố. Cán bộ Cộng Sản ngồi trên bàn chủ tọa. Nông dân nghèo được khích động, hứa hẹn chia của và huấn luyện sẵn để đánh đập, sỉ vả, kết tội người bị đấu tố.
history
Người bị đấu tố sắp bị bắn

history

Người bị đấu tố vừa bị bắn chết trước sự chứng kiến của dân chúng. Tài sản người bị đấu tố thường bị tịch thu, gia đình người bị đấu tố bị đuổi ra khỏi nhà. Thân nhân bị cô lập, không được hành nghề, không được làm mướn. Hàng triệu người miền Bắc là nạn nhân của Cộng Sản, đã sống trong tình trạng đói khổ, cùng quẩn suốt cuộc đời. Phần lớn những người bị đấu tố chỉ là những nông dân giỏi, khá giả nhờ vào tài sức của mình. Họ đã bị giết chết, bị cướp đọat tài sản một cách oan uổng

nncs

MauThan

thuyennhan

danangchaygiac
Mỗi khi bộ đội Cộng sản đến đâu là người dân miền Nam ùn ùn bỏ chạy để lánh nạn Cộng Sản. Hình ảnh trên đây chụp cảnh dân chúng thành phố Đà nẳng chạy nạn Cộng Sản khi miền Trung thất thủ đầu năm 1975.

-------------oo0oo---------------

Những hình ảnh đẹp của Cộng Đồng Việt Nam

ucchau
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

ucchau
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

congdong

congdong

congdong

congdong

congdong

covang
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

covang
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

 


Home Page Vietlist.us


bottom